Top 10 Bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan

Bài thơ: Chùa Trấn Bắc

Chùa Trấn Bắc


Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Khách đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rót mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!

Nguồn:

  • Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951.
  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004

Bài thơ: Chùa Trấn Bắc
Bài thơ: Chùa Trấn Bắc

Bài thơ: Chùa Trấn Bắc
Bài thơ: Chùa Trấn Bắc

Bài thơ: Buổi chiều lữ thứ

Buổi chiều lữ thứ

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Có bản chép tiêu đề là Cảnh chiều hôm, Chiều hôm nhớ nhà.

Nguồn:

  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004.

Bài thơ: Buổi chiều lữ thứ
Bài thơ: Buổi chiều lữ thứ

Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Trước sàng linh khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.

Mẹ lìa! Mẹ ơi!
... con, tình thảm thiết, sao đành,
Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể.

Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi.
Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị.

Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia,
Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế.

Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu,
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế.

Ôi!
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy.

Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang,
Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể.

Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.

Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng,
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế.

Rày:
Nhân tiết hạ thiên,
Lâm tuần đoan ngọ.

Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế.

Tiêu đề nghĩa là bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ. Bài này được viết bằng chữ Nôm, chép trong Quốc phong ngẫu vịnh, ký hiệu VHv.2248, lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm.

Nguồn: Vũ Thanh Hằng, “Một bài văn tế bằng chữ Nôm,” Tạp chí Hán Nôm, số 1/1990

Song nữ tế tế thái thuỷ văn
Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Song nữ tế tế thái thuỷ văn
Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Bài thơ: Qua đèo Ngang

Qua đèo Ngang

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Nguồn:

  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004.
  • Thử bàn về vấn đề phiên Nôm, Nguyễn Ngọc San, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, 11-2004.

Bài thơ: Qua đèo Ngang
Bài thơ: Qua đèo Ngang

Bài thơ: Thăng Long hoài cổ

Thăng Long hoài cổ

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Có bản chép tiêu đề là "Hoài cổ".

Nguồn:

  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004.

Bài thơ: Thăng Long hoài cổ
Bài thơ: Thăng Long hoài cổ

Bài thơ: Cảnh Thu

Cảnh Thu

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt sương

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,

Xanh um cổ thụ tròn xoe tán

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chấp ruợu

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ,

Cho hay cảnh cũng ưa nguời nhỉ?

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Nguồn:

  • Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sủng, Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 19532.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004

Bài thơ: Cảnh Thu
Bài thơ: Cảnh Thu

Bài thơ: Cảnh Hương Sơn

Cảnh Hương Sơn

Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này
Thuyền nan đón khách máy chèo lay
Hai bên quả núi lồng hương suối
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy
Chùa tiên bát ngát khói hương bay
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục
Non nước Bồng Lai mới thấy đây!

Bài thơ: Cảnh Hương Sơn
Bài thơ: Cảnh Hương Sơn

Bài thơ: Cảnh Hương Sơn
Bài thơ: Cảnh Hương Sơn

Bài thơ: Đền Trấn Võ

Đền Trấn Võ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười.

Bài thơ: Đền Trấn Võ
Bài thơ: Đền Trấn Võ

Bài thơ: Đền Trấn Võ
Bài thơ: Đền Trấn Võ

Bài thơ: Chiều hôm nhớ nhà

Chiều hôm nhớ nhà

Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?

Tiêu đề trong "Văn đàn bảo giám" chép là "Nhớ nhà".

Nguồn:

  • Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951.
  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004.

Bài thơ: Chiều hôm nhớ nhà
Bài thơ: Chiều hôm nhớ nhà

Bài thơ: Tức cảnh chiều thu

Tức cảnh chiều thu


Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Nguồn:

  • Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953.
  • Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004.

Bài thơ: Tức cảnh chiều thu
Bài thơ: Tức cảnh chiều thu

Bài thơ: Tức cảnh chiều thu
Bài thơ: Tức cảnh chiều thu

Đăng ngày 09/07/2024, 62 lượt xem