Khi con tu hú
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi.
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Huế, tháng 7-1939
Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả mới bị bắt giam ở đây.
Nguồn:
1. Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, Hà Nội, 1971
2. Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 20033. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
Gọi điện
Khi con tu hú
Khi con tu hú
Phong cách sáng tác của Tố Hữu?
Phong cách sáng tác của Tố Hữu, một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, thường được nhận diện qua các đặc điểm chính sau:
- Lời thơ đơn giản nhưng sâu sắc: Tố Hữu sử dụng ngôn từ bình dị, dễ hiểu, phù hợp với đông đảo người đọc, nhưng lại chứa đựng nhiều tầng nghĩa và cảm xúc sâu sắc. Ngôn ngữ của ông vừa mang tính dân tộc cao, vừa thể hiện được tình cảm chân thành và sâu lắng.
- Chủ nghĩa hiện thực xã hội: Thơ của Tố Hữu thường phản ánh hiện thực xã hội, nhất là trong các giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam như kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ông viết về những đau thương, mất mát, cũng như niềm tin và hy vọng của nhân dân trong các giai đoạn này.
- Tính chính trị và cách mạng: Phong cách sáng tác của Tố Hữu rất rõ nét trong việc thể hiện tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước. Ông thường xuyên viết về các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, những chiến công và nhân vật lịch sử quan trọng.
- Chất thơ trữ tình và lãng mạn: Dù chủ yếu viết về các chủ đề chính trị và xã hội, thơ của Tố Hữu vẫn mang đậm tính trữ tình. Ông có khả năng kết hợp giữa yếu tố chính trị và cảm xúc cá nhân, làm cho thơ vừa mạnh mẽ lại vừa cảm động.
- Những hình ảnh và biểu tượng giàu tính dân tộc: Tố Hữu thường sử dụng các hình ảnh, biểu tượng mang tính chất dân tộc và văn hóa truyền thống để làm nổi bật các chủ đề của mình. Điều này giúp thơ của ông trở nên gần gũi và dễ dàng kết nối với người đọc.
- Thể thơ: Ông sử dụng nhiều thể loại thơ khác nhau, từ thơ lục bát truyền thống đến thơ tự do, và thường xuyên sử dụng nhịp điệu và âm thanh của thơ để làm tăng sức truyền cảm.
Phong cách của Tố Hữu không chỉ phản ánh tâm tư của một thế hệ mà còn đóng góp vào việc định hình phong cách thơ cách mạng trong nền văn học Việt Nam.
Cánh chim không mỏi
Chiều nay gió lặng, nắng hanh
Mây hồng trắng nõn, trời xanh, Bác về
Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa
Bác đi, muôn dặm đường xa
Hôm nay tuyết lạnh, nay vừa nắng lên
Bác về, tóc có bạc thêm?
Năm canh, bốn biển, có đêm nghĩ nhiều?
Hỡi Người, tim những thương yêu
Cánh chim không mỏi sơm chiều vẫn bay
Chim kêu tung cánh chim bay
Ba mươi sáu triệu chim bầy gọi nhau
Chim kêu ríu rít trên đầu
Mùa cam đương ngọt địa cầu của ta
Giá sương đương hẹn mùa hoa
Nắng xuân từ Mạc-tư-khoa đã về.
Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa
Hoa ơi, con gái của cha
Cha nâng con nhé, làm hoa mừng Người.
Bác về, vui đó, con ơi!
Bác hôn các cháu, bác cười với dân
Ngày vui vui những hai lần:
Bác về, mang cả mùa xuân lại nhà.
12-1960
Nguồn: Tố Hữu, Gió lộng, NXB Văn học, 1981
Cánh chim không mỏi
Cánh chim không mỏi
Đông
Đêm nay gió biển đông về
Mùa thu chừng đã tái tê đất trời
Non quanh chừng đã lạnh rồi
Rừng sâu run rẩy, xa vời tiếng rung
Sân lao mấy cội vông đồng
Lá cành xao xác, buồn đông não nề
Một mình nằm tựa đêm nghe
Lạnh lùng gió lọt vào khe cửa buồng
Mền không mà chiếu cũng không
Một mình trơ trọi giữa phòng xà linh
Nằm nghe mình chuyện với mình
Mênh mông nhớ bạn, gởi tình trăm phương…
Lao Bảo, tháng 12-1940
Nguồn: Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959
Đông
Đông
Đêm giao thừa
Đêm nay pháo nổ giao thừa
Mà người chiến sĩ không nhà còn đi
Truông dài, bãi rộng, đồng khuya
Người đi như chẳng nhớ gì tết xuân
Người đi quên hết gian truân
Say mê như một dân quân trên đường
Xóm làng phảng phất quê hương
Nước non man mác tình thương mặn nồng
Song trong mưa gió lạnh lùng
Tái tê chân cũng ngại ngù bước gieo
Nép lưng vào miếu tranh nghèo
Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng.
Xuân 1943
Nguồn: Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959
Đêm giao thừa
Đêm giao thừa
Mẹ Suốt
Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng: Quê mẹ, Bảo Ninh
Mênh mông sóng biển, lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiều, nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn cửa người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng, cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa…
Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây chừ biển rộng trời cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Ông nhà theo bạn “xuất quân”
Tui may cũng được vô chân “sẵn sàng”
Một tay, lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ…
Gan chi gan rứa, mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước, mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò…
Ghé tai mẹ, hỏi tò mò:
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:
“Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!”
Vui sao, câu chuyện ơn tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say…
4-11-1965
Nguồn: Tố Hữu, Ra trận, NXB Văn học, 1972
Mẹ Suốt
Mẹ Suốt
Nhà thơ Tố Hữu là ai?
Nhà thơ Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 và mất ngày 9 tháng 12 năm 2002. Tố Hữu được biết đến với những tác phẩm thơ ca mang đậm dấu ấn của cách mạng và tinh thần dân tộc. Ông là một trong những cây bút chủ chốt của thơ ca cách mạng, và thơ ông thường phản ánh cuộc sống, cuộc đấu tranh của nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Những tập thơ nổi tiếng của ông bao gồm “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gửi người em gái miền Nam” và “Ra trận”. Tố Hữu được khen ngợi vì khả năng kết hợp giữa hình thức thơ truyền thống và nội dung cách mạng, đồng thời thơ ông còn thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm của nhân dân trong các giai đoạn lịch sử quan trọng.
Bầm ơi
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…
1948
Nguồn: Tố Hữu, Việt Bắc, NXB Văn học, 1962
Bầm ơi
Bầm ơi
Trường tôi
Tặng các chiến sĩ bình dân học vụ
Trường tôi kiểu cách gì đâu
Không ham mái ngói, chẳng cầu tương vôi
Nhà tranh vách đất đủ rồi
Đình quang chiếm chật, được ngồi là hay
Trường tôi vui giữa luống cày
Bến sông, bãi chợ, bóng cây, lưng đồi
Trường tôi vui giữa biển khơi
Chữ reo mặt sóng, chữ ngời ghe câu
Trường tôi vui giữa rừng sâu
Chữ theo đuốc lửa, đêm thâu tiếng người.
Lại đây, ơi bạn mình ơi!
Trường tôi vang vọng rồn lới nước non
Ta nghèo, không mực thì son
Bút tre phấn gạch, bà con tạm dùng.
Nghiêng đầu trên tấm bảng chung
Phơ phơ tóc bạc, bạn cùng tóc xanh
Này em, này chị, này anh
Chen vai mà học, rách lành sao đâu!
I tờ mớm chữ cho nhau…
1946
Trường tôi
Trường tôi
Việt Bắc
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.
Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình.
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Đường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh.
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
10-1954
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, tháng 7-1954, Hiệp định Genever về Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ cân cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
Trích đoạn bài thơ này từ đầu tới câu “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 12 từ 2007.
Nguồn:
1. Tố Hữu, Việt Bắc, NXB Văn học, 1962
2. Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 2003
Việt Bắc
Thăm trại Ba Vì
Đầu năm thăm trại Ba Vì,
Phởn phơ bò giống, xanh rì cỏ non.
Bò to như chú voi con,
Lạ lùng quê mới mắt tròn ngó quanh.
Hồ Suối Hai, nước trong xanh,
Tản Viên núi đẹp như tranh giữa trời.
Bâng khuâng bốn biển tình đời,
Càng thương muôn dặm đất người Cu Ba…
1-1-1972
Nguồn: Tố Hữu, Máu và hoa, NXB Tác phẩm mới, 1977
Thăm trại Ba Vì
Thăm trại Ba Vì
Tiếng sáo Ly Quê
Ly Quê trên súng thần công
Xinh xinh như một tiên đồng Bồng Lai
Trăng khuya len xuống rừng dài
Đường non thăm thẳm, đá gài lô nhô
Hồng quân mê mải sông hồ
Đêm nay tạm nghỉ bên bờ suối reo
Đêm nay như những chiều chiều
Đôi con chim đứng lưng đèo ngẩn ngơ
Ly Quê nâng ống tre tơ
Thổi bài Quốc tế dưới cờ Hồng quân
Hồng quân bên suối xoa chân
Chân rơm rớm máu, Hồng quân không giầy!
Ra đi lừ ấy Giang Tây
Nước non vạn lý, đêm ngày trường chinh
Quản chi lên thác xuống ghềnh
Môi vầng cờ đỏ đinh ninh lời thề
Can trường trải với sơn khê
Bước đi đã hẹn ngày về thành công.
Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân
Sáo kêu réo rắt xa gần
Sáo kêu giục giã bước chân quân Hồng
Ly Quê trên súng thần công
Nghe con chim hót trong lồng tim xanh…
1938
Ly Quê là tên một thiếu niên anh dũng trong cuộc trường chinh của Hồng quân Trung Hoa. Trên đường hành quân, em thường thổi sáo cho hồng quân nghe. (Theo thiên phóng sự lớn “Nước Trung Hoa đỏ trên đường” của nhà văn tiến bộ Mỹ Smidley)
Nguồn: Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959
Tiếng sáo Ly Quê
Tiếng sáo Ly Quê