Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 5

Chúng ta đang sống trong trong một xã hội bình đẳng, dân chủ - nơi mà con người được hưởng tất cả những quyền tự do, hạnh phúc. Nơi không có chiến tranh, không có áp bức, không có bất công hay phân biệt đối xử. Đó chính là một cuộc sống mà con người ta hằng mong ước. Nhưng đó lại là điều xa xỉ ở trong xã hội cũ. Con người khao khát bình đẳng, khao khát quyền làm chủ, nhưng đó lại chỉ là một ước mơ xa vời, không bao giờ thực hiện được. Điều đó lại càng thể hiện rõ hơn trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Thay vì diễn tả bằng lối viết văn dài dòng, chỉ bằng 4 câu thơ mà tất cả những hàm ý mà tác giả muốn bày tỏ đã được thể hiện hết ở trong 4 câu thơ đó. Không quá dài để sử dụng nhiều từ ngữ cũng không quá ngắn để người đọc không thể hiểu hết được nội dung. Chỉ vỏn vẹn bốn câu, mà người đọc vừa đọc và ngẫm nghĩ sâu xa.

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn". Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao thân thuộc "thân em" để có thể ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, "vừa trắng lại vừa tròn". Tác giả sử dụng lối nói ẩn dụ để có thể nói lên hình tượng người phụ nữ "Thân em như ...". Hình ảnh người phụ nữ mộc mạc, giản dị nhưng lại toát lên nét kiêu xa, lộng lẫy và đầy màu sắc đến vậy. Chỉ bằng hình ảnh chiếc bánh trôi nước, đơn thuần, bình dị, màu trắng gợi lên cho người đọc sự thuần khiết, tinh khôi của người phụ nữ - những người đáng ra phải nhận được sự quan tâm, chở che và bảo vệ. Nhưng câu thơ thứ hai, tác giả lại cho ta những điều dự cảm không lành:

"Bảy nổi ba chìm với nước non". Trong câu thơ trên, tác giả đã sử dụng câu thành ngữ "bảy nổi ba chìm" một cách khéo léo, đầy tinh tế để gợi tả về số phận "bất hạnh" của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thành ngữ bảy nổi ba chìm cũng được những người dân ta thường hay nhắc đến trong khi nấu bánh trôi, khi nào bánh 7 phần nổi lên và 3 phần chìm thì có thể vớt bánh ra. Nhưng trong câu thơ này, nó lại gợi nhớ cho người đọc về thân phận của người phụ nữ bị chà đạp, bị những định kiến của xã hội làm cho cuộc đời bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai.

Cái thân phận yếu ớt, mảnh mai ấy làm sao có thể chịu được những sóng gió, vùi dập, cứ lênh đênh không có một bến bờ để neo đậu. Không cần dùng những câu nói hay những động từ có tác động mạnh đến người đọc, nhưng những hình ảnh ẩn dụ của Hồ Xuân Hương lại có ấn tượng mạnh mẽ đến vậy. Người phụ nữ trong xã hội ấy, họ không được định đoạt số phận, không được "quyền" quyết định hạnh phúc của mình mà cứ thế phó mặc cho cuộc đời đưa đẩy. Đọc đến câu thơ này, nhiều người đọc sẽ phải thốt lên: "Làm sao có thể để cho người phụ nữ chân yếu tay mềm, yếu ớt nhưng vậy phải gánh chịu những bão bùng của cuộc đời, vậy phải chăng trên thế gian này không còn ai giống "Từ Hải" để có thể cứu giúp những thân phận người phụ nữ đầy bất hạnh như Thúy Kiều nữa?". Thật đau đớn thay.

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn". Cái thân phận yếu mềm, tủi nhục và không biết đến ngày mai ấy cứ phó mặc cho cuộc đời, phó mặc cho "kẻ nặn" cái quyền được "điều khiển" cuộc đời mình. Dù họ có vùng vẫy như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời họ cũng không thể thoát khỏi được. Vậy vì sao lại vậy? Vì sao họ lại tiếp tục căm chịu như vậy? Phải chăng do họ sợ? Không, bởi vì họ nhận thức sâu sắc rằng, dù họ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể nào có thể chống lại những định kiến của xã hội, đã được bồi đắp hàng nghìn năm. Cái chế độ khiến con người ta đi vào bế tắc và không muốn phản kháng lại nữa. Vậy biết đến bao giờ họ mới có thể có một cuộc sống tự lập riêng cho chính mình, để họ có thể được sống theo ý mình, để họ có thể được làm chính họ?

"Mà em vẫn giữ tấm lòng son". Giọng thơ dù thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục, cam chịu của người phụ nữ nhưng vẫn giữ thái độ kiên trì, bền vững "tấm lòng son" - một biểu hiện tượng trưng cho phẩm chất thủy chung, son sắt, một lòng một dạ với chồng với con. Dù cho họ bị vùi dập đến đâu, dù có đau khổ đến nhường nào họ vẫn sẽ là một người vợ, người mẹ, người con hiếu thảo, chịu thương chịu khó, hết mực với chồng với con.

Đó chính là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt không thể thay thế được. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ cảm xúc mạnh mẽ của tác giả: sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ đang là "tù nhân" của xã hội phong kiến và sự phẫn nộ đối với những "kẻ nặn" - những kẻ trực tiếp gây ra những nỗi đau cho chính những người phụ nữ đáng ra họ phải được hưởng nhiều hơn là cam chịu như vậy.

Bài thơ dù rất ngắn nhưng lại lột tả được hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam thông qua hình ảnh bánh trôi nước - món ăn dân dã nhưng lại quen thuộc và bình dị đến thế. Được thể hiện bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bài thơ đã thể hiện những sự cảm thông, thương xót của Hồ Xuân Hương đối với hình tượng người phụ nữ Việt Nam. Tác giả mong muốn thông qua bài thơ, góp một tiếng lòng, sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ và thức tỉnh những "kẻ nặn": hãy biết trân trọng và thương yêu những người phụ nữ ở bên cạnh mình.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 5
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 5

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 5
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 5

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 3

Thơ vịnh chỉ thực sự có ý nghĩa khi có sự gửi gắm tình cảm, tư tưởng của nhà thơ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương, vì thế, còn là lời tự bộc bạch của một tấm lòng phụ nữ. Ta có thể nói nhà thơ mượn lời cái bánh trôi để nói lên thân phận và tấm lòng người phụ nữ.

Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo: vịnh một món ăn dân tộc, dân gian. Thiếu một bàn tay, một tâm hồn phụ nữ dân dã như bà thì có lẽ cái bánh trôi nước chưa đi vào được văn học. Trước hết, bài thơ vịnh của Hồ Xuân Hương rất tài tình:

Thân em vừa trắng, lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Đây là lời tự giới thiệu của bánh: từ hình dáng, cấu tạo và cách chế tạo. Bánh trôi làm bằng bột nếp, nhào nước cho nhuyễn, rồi nặn thành hình tròn như quả táo, bọc lấy nhân bằng đường đen, nước sôi thì bỏ vào luộc, khi chín thì bánh nổi lên. Người nặn bột làm bánh phải khéo tay thì bánh mới đẹp, nếu vụng thì bánh có thể bị rắn hay bị nhão. Nhưng dù thế nào thì bánh vẫn phải có nhân. Thiếu nhân, bánh sẽ rất nhạt nhẽo. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên đúng là bánh trôi nước, không sai một li.

Hình ảnh trong bài thơ là bánh trôi nước. Nhưng bài thơ đâu phải là tác phẩm quảng cáo cho một món ăn dân tộc. Thơ vịnh chỉ thực sự có ý nghĩa khi có sự gửi gắm tình cảm, tư tưởng của nhà thơ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương, vì thế, còn là lời tự bộc bạch của một tấm lòng phụ nữ. Ta có thể nói nhà thơ mượn lời cái bánh trôi để nói lên thân phận và tấm lòng người phụ nữ. Bánh trôi là một hình ảnh gợi hứng, một ẩn dụ.

Thân em vừa trắng, lại vừa tròn. Thân trắng vừa tả cái bánh bằng bột trắng, vừa tả tấm thân trắng đẹp, phẩm hạnh trong trắng. Tròn vừa có nghĩa là em được phú cho cái hình dáng tròn, lại vừa có nghĩa là em làm tròn mọi bổn phận của em. Bảy nổi ba chìm với nước non. Bảy nổi ba chìm là thành ngữ chỉ sự trôi nổi, lênh đênh của số phận giữa cuộc đời. Nước non là sông, biển, núi, non, chỉ hoàn cảnh sống, suy rộng ra là đời, cuộc đời con người.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Đây là hình ảnh may rủi mà đời người phụ nữ rơi vào. Trong xã hội cũ trọng nam khinh nữ, số phận người phụ nữ đều do người đàn ông định đoạt. Cho nên người con gái trong ca dao cảm nhận:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Thân em như thể cánh bèo

Ngược xuôi, xuôi ngược theo chiều nước trôi

Những câu ca dao thể hiện một ý thức an phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Người phụ nữ vẫn giữ niềm thuỷ chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào kín đáo về phẩm chất thuỷ chung của người phụ nữ. Tuy nhiên, cả bài thơ vẫn thấm đượm nỗi cảm thương cho thân phận. Thân trắng, phận tròn mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ được mình.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 3
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 3

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 3
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 3

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 1

Đến với thơ của Bà Huyện Thanh Quan chúng ta thưởng thức được những lời thơ trang nhã, mang tính chất cung đình, luôn gợi nỗi buồn man mác. Ngược lại học thơ của Bà Hồ Xuân Hương ta lại gặp một phong cách hoàn toàn khác. Giọng điệu thơ mạnh mẽ, rắn rỏi, đề tài thơ bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý, chua cay, chất chứa nỗi niềm phẫn uất, đả kích xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ quen thuộc thể hiện rõ phong cách thơ của bà.

Đây là bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác giả đã mượn chiếc tránh trôi nước để thể hiện vẻ đẹp về hình thể và tâm hồn của người con gái thân phận nhỏ bé, bị chìm nổi, phụ thuộc mà vẫn giữ gìn trọn vẹn phẩm giá của mình. Toàn bài thơ là một hình ảnh nhân hoá tượng trưng. Nhờ tài quan sát, nhờ khả năng liên tưởng kì lạ, Hồ Xuân Hương đã phát hiện được những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi nước tầm thường và hình ảnh cũng như cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Cả hai đều có vẻ bề ngoài đẹp (trắng, tròn) có tâm hồn cao quý (tấm lòng son), cuộc sống chìm, nổỉ, lênh đênh (trong nồi nước sôi luộc bánh cũng như trong cuộc đời), không làm chủ được số phận của mình. Chính những nhận xét riêng rất mới này, hình tượng thơ đã được xây dựng. Nhà thơ ngay từ những từ đầu tiên đã nhân hoá cái bánh trôi, gắn liền những chi tiết tả thực với những từ ngữ đa nghĩa tạo lên một trường liên tưởng rộng rãi cho người đọc.

Do đó, bài thơ tả thực mà hàm nghĩa tượng trưng, nói về cái bánh trôi với đầy đủ đặc điểm của nó mà thành chuyện người phụ nữ chìm nổi trong cuộc đời. Người con gái ở đây có hình thể thật đẹp, da trắng nõn nà, thân hình đầy đặn, xinh xắn, có tâm hồn thật trong trắng nhân hậu hiền hoà: Thân em vừa trắng lại vừa tròn.

Lẽ ra với vẻ đẹp như thế, nàng phải có cuộc đời sung sướng. Nhưng không, cuộc đời nàng phải long đong, vất vả, phiêu dạt, chìm nổi không chỉ một lần, trong cuộc đời rộng lớn: Bảy nổi ba chìm ưới nước non. Người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời, số phận của họ do người khác định đoạt, nàng bị phũ phàng, vùi dập: Rắn nát mặc dầu tay kể nặn. Nhưng không, dù đời có phũ phàng, dù trải bao bất hạnh người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá và tâm hồn cao đẹp của mình. Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Ở đây ta lại thấy được tài năng sáng tạo của nữ sĩ. Ngay trong câu thơ đầu, bà chọn chi tiết không nhiều nhưng chọn kĩ và tả đúng với đặc điểm cua chiếc bánh và tác giả chỉ cần đặt trước những từ miêu tả ấy hai từ thân em. Câu thơ lại sinh động hẳn lên. Thân em, lời xưng hô của cái bánh được nhân hoá mà đó cũng chính là lời của người phụ nữ tự giới thiệu. Nhờ hai từ này, trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ đẹp hiện ra trong tâm trí mọi người. Cặp quan hệ từ vừa... lại vừa phụ trợ cho tứ thơ khiến giọng thơ hàm chứa một ý thức và một chút hài lòng kiêu hãnh về vẻ đẹp hình thể đó.

Thế nhưng sang câu thứ hai giọng thơ đột ngột chuyển hẳn. Từ thoáng chút hài lòng, tự hào chuyển sang than vãn về số phận hẩm hiu. Đảo lại một thành ngữ quen thuộc (ba chìm bảy nổi), nhà thơ đã tạo nên cách nói mới, nhấn mạnh hơn vào sự long đong. Thành ngữ này đi liền với hình ảnh vừa trắng vừa tròn tạo ra sự đối lập bất ngờ càng tô đậm nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Cụm từ với nước non đi kèm theo hình ảnh bảy nổi ba chìm như một lời oán trách: Tại sao xã hội bất công lại vùi dập cuộc đời người phụ nữ như vậy?

Và từ giọng than vãn lời thơ lại chuyển sang giọng ngậm ngùi cam chịu "Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn". Người phụ nữ không làm chủ được cuộc dời mình mà phụ thuộc vào tay kẻ khác. Nhưng đến câu cuối cùng giọng thơ, ý thơ đột ngột chuyển lại: "Mà em vẫn giữ tấm lòng son". Ở đây kết cấu đối lập được tác giả khai thác triệt để. Đó là sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và câu bốn, đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ quả quyết bảo vệ phần trong sáng trong tâm hồn con người. Sự đối lập này tràn ra cả ngôn từ Mặc dù... mà em vẫn giữ... chỉ quan hệ đối lập nhưng do đặt vị trí đầu câu lại được tăng cường thêm của từ vẫn khiến cho ý nghĩa đối lập càng thêm sắc, mạnh.

Từ mà là một "nhãn từ" (chữ hay nhất trong câu thơ) nói lên một cách dõng dạc và dứt khoát sự kiên trì cố gắng đến cùng để giữ tấm lòng son. Ở đây người phụ nữ dám đối lập tấm lòng son với tất cả sóng gió, bảy nổi ba chìm của cuộc đời. Đó là người phụ nữ có ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm chất của mình. Đó là lời khẳng định giá trị đáng kính của người phụ nữ.

Bài thơ vỏn vẹn chỉ có bốn câu, đề tài lại là sự vật bình thường nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo nhiều vẻ. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và ý thức về giá trị, phẩm giá của người phụ nữ chân chính, của con người luôn giữ tấm lòng son dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Tóm lại, có thể nói Bánh trôi nước là bài thơ trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Đây là tiếng nói của người phụ nữ tự bộc bạch mình, là lời oán ghét sự bất công đối với người phụ nữ đồng thời cũng là lời khẳng định giá trị tâm hồn của họ. Nhà thơ đã thay mặt giới phụ nữ cất lên tiếng nói ấy cũng là lời bà tự khẳng định mình.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 1
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 1

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 1
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 1

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 8

Chúng ta đang được sống trong một thế giới tràn đầy hạnh phúc,một thế giới có sự bình đẳng về chủng tộc về mọi tầng lớp dân tộc. Mà trong ta có ai biết được trong xã hội xa xưa người phụ nữ phải chịu đựng một quan niệm cổ hữu sai trái ”trọng nam khinh nữ”. Sống trong hoàn cảnh đó, cũng mang trong mình số phận người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã viết nên tác phẩm “Bánh trôi nước”.

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầ tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Chỉ có những chiếc bánh trôi nước mộc mạc giản đơn thế thôi mà tác giả Hồ Xuân Hương đã làm nên một bài thơ nói lên sự chịu đựng, gánh lấy quan niệm sai trái trọng nam khinh nữ của người phụ nữ lúc bấy giờ. Bài thơ chỉ có những vốn từ đơn giản thân thuộc mà chất chứa biết bao nhiêu tình cảm.

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao quen thuộc “Thân em” để ngưởi phụ nữ có thể hóa thân vào những chiếc bánh trôi nước dân dã đáng yêu. Hàm chứa bên trong vẫn là ca ngợi vè đẹp của người phụ nữ biến họ thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và thắm tươi nhất của cuộc đời. Làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp thêm màu sắc.

“Bảy nổi ba chìm với nước non”. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận định đoạt. Tôi tự hỏi:”Một người phụ nữ đẹp đến mà vì lẽ gì phải chịu đựng cuộc đời như vậy, chẳng lúc nào được sống trong cuộc sống vui vẻ hạnh phúc?” Tại sao những người đàn ông to lớn khỏe mạnh như thế mà không chịu những số phận khổ cực mà bắt những phụ nữ nhỏ bé kia phải gánh lấy chứ?

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” Tác giả sử dụng một biện pháp kinh tế:đảo ngữ. Nó lên người phụ nữ phải sống lê thuộc. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tỏng phu, phu tử tòng tử” . Lúc ở nhà thì phụ thuộc vào cha, cha bảo gì làm nấy chằng giám làm trái. Khi lập gia thất thì phải cung phụng cho chồng , cũng chẳng giám làm sai. Lúc chồng mất sống phận của mình phải nương nhờ vào con của mình. Trên cuộc đời này làm gỉ có quan niệm vô lí đến thế! Vậy biết bao giờ họ mới có được cuộc sống riêng tự lâp cho chính bản thân mình. Họ phải đau khổ biết bao để chịu đựng những thứ đao lí như thế.

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Giọng thơ tự hào quả quyết biểu thị thái độ kiên trì, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắc son thủy chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng con, Với mọi người tuy bị cuộc sống phụ thuộc, đối xử không công bằng trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách của Hồ Xuân Hương: cảm thương cho người phụ nữ, căm phẫn đối với người chồng.

Bài thơ nói về người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hình ảnh bánh trôi nước – một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bàn sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm thông cảm và tự hào đối với số phận, thân phận và của người phụ nữ Việt Nam nó có gái trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết với tất cả lòng yêu mến, tự hào bản sắc nền văn hóa Việt.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 8
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 8

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 8
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 8

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 7

Bánh trôi nước là một trong những bài thơ nổi của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Bài thơ vừa cho thấy vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cho thấy tấm lòng nhân văn cao cả của bà: yêu thương trân trọng người phụ nữ.

Bài thơ có hai lớp nghĩa chính, lớp nghĩa thứ nhất là lớp nghĩa tả thực, miêu tả bánh trôi nước từ hình dáng cho đến cách làm. Bánh trôi có hình tròn, màu trắng. Làm bánh trôi bằng cách viên thành hình tròn nhỏ vừa ăn, bên trong bánh trôi là một viên đường nhỏ, thường được làm bằng đường phên hoặc đường phèn. Khi luộc thấy bánh lên tức là bánh đã chín. Bài thơ đã mô tả một cách chân thực, chính xác về món ăn dân dã, quen thuộc của nhân dân ta.

Nhưng ẩn đằng sau lớp nghĩa tả thực đó lại là lớp nghĩa ẩn dụ hết sức tinh tế, sâu sắc, hình ảnh bánh trôi cũng chính là hình ảnh biểu tượng cho người phụ nữ. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng mô típ quen thuộc trong văn học dân gian “Thân em”. Hai chữ thân em nói lên nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hương có sự đồng điệu, gặp gỡ với những tiếng hát than thân trong ca dao:

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.

“Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

Việc Hồ Xuân Hương sử dụng các ngữ liệu dân gian vừa khiến cho thơ bà gần gũi, mềm mại với đời sống, mặt khác làm cho tiếng thơ trở nên da diết, thấm đầy chất nhân bản, trở thành tiếng thơ của bao người. Ngay từ câu thơ đầu tiên của bài, bà đã khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ: trắng, tròn, họ mang vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ. Lời khẳng định này cũng cho thấy bà rất có ý thức về bản ngã của mình nói riêng và của những người phụ nữ nói chung. Mang vẻ đẹp về hình thức, ý thức được vẻ đẹp đó, nhưng số phận của họ lại hết truân chuyên, vất vả:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Thân phận của họ cũng chẳng khác gì những tấm lụa đào, hạt mưa sa,… người con gái trong xã hội cũ không được tự quyết định số phận, hạnh phúc của mình. Khi ở nhà họ phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu họ phải ngồi ở đó, đến lúc đã yên bề gia thất số phận của họ lại tiếp tục bị phụ thuộc vào người chồng. Những người phụ nữ này thật nhỏ bé và đáng thương, cuộc đời chìm nổi với biết bao sóng gió, hạnh phúc của bản thân không được tự mình quyết định. Mặc dù cuộc sống không được suôn sẻ, luôn gặp phải những sóng gió nhưng những người phụ nữ ấy lại mang trong mình những phẩm chất hết sức tốt đẹp:

Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Họ là những người phụ nữ luôn mang trong mình tấm lòng trong trắng, tốt đẹp, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, thủy chung. Chữ son như một điểm sáng, nhãn tự trong bài, làm bừng sáng nét đẹp về nhân cách, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc. Kết hợp linh hoạt các mô típ của văn học dân gian khiến cho bài thơ vừa giản di, gần gũi vừa mang dáng dấp uyên bác, tài hoa. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Qua tác phẩm này ta có thể thấy Hồ Xuân Hương là người hết sức trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ không chỉ ở phẩm chất mà ngay cả vẻ đẹp bề ngoài. Đồng thời lời thơ tha thiết cũng là tiếng nói cảm thông với số phận chìm nổi, bị lệ thuộc của người con gái. Qua đây còn lên án xã hội cũ đã đè nén, áp bức, tước bỏ quyền được lựa chọn cuộc sống, hạnh phúc của con người.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 7
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 7

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 7
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 7

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 2

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầ tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son"

Chỉ có những chiếc bánh trôi nước mộc mạc giản đơn thế thôi mà tác giả Hồ Xuân Hương đã làm nên một bài thơ nói lên sự chịu đựng, gánh lấy quan niệm sai trái trọng nam khinh nữ của người phụ nữ lúc bấy giờ. Bài thơ chỉ có những vốn từ đơn giản thân thuộc mà chất chứa biết bao nhiêu tình cảm.

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn". Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao quen thuộc "Thân em" để ngưởi phụ nữ có thể hóa thân vào những chiếc bánh trôi nước dân dã đáng yêu. Hàm chứa bên trong vẫn là ca ngợi vè đẹp của người phụ nữ biến họ thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và thắm tươi nhất của cuộc đời. Làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp thêm màu sắc.

"Bảy nổi ba chìm với nước non". Thành ngữ "bảy nổi ba chìm" được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận định đoạt. Tôi tự hỏi: "Một người phụ nữ đẹp đến thế mà vì lẽ gì phải chịu đựng cuộc đời như vậy, chẳng lúc nào được sống trong cuộc sống vui vẻ hạnh phúc?" Tại sao những người đàn ông to lớn khỏe mạnh như thế mà không chịu những số phận khổ cực mà bắt những phụ nữ nhỏ bé kia phải gánh lấy chứ?

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn". Tác giả sử dụng một biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ. Nói lên người phụ nữ phải sống lê thuộc. "Tại gia tòng phụ, xuất giá tỏng phu, phu tử tòng tử". Lúc ở nhà thì phụ thuộc vào cha, cha bảo gì làm nấy chằng giám làm trái. Khi lập gia thất thì phải cung phụng cho chồng, cũng chẳng giám làm sai. Lúc chồng mất sống phận của mình phải nương nhờ vào con của mình. Trên cuộc đời này làm gỉ có quan niệm vô lí đến thế! Vậy biết bao giờ họ mới có được cuộc sống riêng tự lâp cho chính bản thân mình. Họ phải đau khổ biết bao để chịu đựng những thứ đao lí như thế.

"Mà em vẫn giữ tấm lòng son". Giọng thơ tự hào quả quyết biểu thị thái độ kiên trì, bền vững. "Tấm lòng son" tượng trưng cho phẩm chất sắc son thủy chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng con. Với mọi người tuy bị cuộc sống phụ thuộc, đối xử không công bằng trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách của Hồ Xuân Hương: cảm thương cho người phụ nữ, căm phẫn đối với người chồng.

Bài thơ nói về người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hình ảnh bánh trôi nước - một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bàn sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm thông cảm và tự hào đối với số phận, thân phận và của người phụ nữ Việt Nam nó có gái trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết với tất cả lòng yêu mến, tự hào bản sắc nền văn hóa Việt.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 2
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 2

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 2
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 2

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 10

Hồ Xuân Hương là con một nhà nho ở Nghệ An. Bà sống nhiều năm ở Thăng Long. Có học, có tài thơ văn, có mối quan hệ với nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Cuộc đời riêng của bà nhiều bi kịch. Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Bà để lại khoảng 50 bài thơ chữ Nôm và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí. Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái, xót đau, có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được ca ngợi là “Bà Chúa thơ Nôm”. Bánh trôi nước là bài thơ nổi tiếng của bà:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Bài thơ Bánh trôi nước là bài thơ đa nghĩa. Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp, nhân bằng đường phèn (lòng son), dạng bánh “tròn”, sắc bánh “trắng”, được luộc trong nồi nước sôi “bảy nổi ba chìm”. Nữ sĩ viết về một món ăn dân tộc với tất cả lòng yêu mến, tự hào về bản sắc nềnvăn hóa Việt Nam. Bài thơ giàu tính nhân dân.

Bài thư còn mang hàm nghĩa độc đáo. Câu 1 có 2 tiểu đối: “Thân em vừa trắng” // “lại vừa tròn”, gợi tả chất bánh ngon lành, tinh khiết, chiếc bánh xinh xắn, dân dã, bình dị, đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng, trinh trắng, vẻ đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng “Thân em” không chỉ nhân hóa chiếc bánh trôi nước, thể hiện một cách nói đậm đà màu sắc dân gian (thân em như hạt mưa sa..., thân em như tấm lụa đào..) mà còn ngợi ca đức tính khiêm nhường, kín đáo, duyên dáng của người con gái làng quê.

Hai câu 2, 3, ngôn ngữ tương phản: “rắn” với “nát”, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không ngon; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh, đềutuỳ thuộc vào “tay kẻ nặn”, vào người cha, người chồng... vào lễ giáo phong kiến, vào số phận. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả sốphận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.

Hai câu 3, 4 cấu trúc: “mặc dù... mà ... vẫn...” nhằm khẳng định một tấm lòng.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

“Vẫn giữ” biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắt son, thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi nước, một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa, giàu bản sắc Xuân Hương.

Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nó có giá trị nhân bản sâu sắc.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 10
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 10

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 10
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 10

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 4

Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ luôn phải chịu những bất công, những định kiến đầy nghiệt ngã của xã hội. Sinh ra là người phụ nữ đã định sẵn những bất công, khác với các bậc nam nhi, họ bị coi thường, khinh rẻ, đối xử tàn nhẫn. Đó chính là nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh trong thơ Nguyễn Du, là Vũ Thị Thiết trong tác phẩm của Nguyễn Dữ...

Trong xã hội phong kiến ấy, người phụ nữ không có tiếng nói, cũng như bất kì địa vị vị gì. Hồ Xuân Hương đã được xem như một hiện tượng của nền văn học Việt Nam. Vì lần đầu tiên trong lịch sử văn chương, có người phụ nữ đề cao người phụ nữ, cất những vần thơ đấu tranh cho số phận của người phụ nữ, châm biếm, đả kích, thậm chí là hạn bệ các "thần tượng" trong xã hội lúc bấy giờ là vua chúa, quan lại, giai cấp thống trị. Một trong những bài thơ tiêu biểu của Hồ Xuân Hương là bài thơ "Bánh trôi nước".

Thơ Hồ Xuân Hương có cái sắc sảo trong câu từ, châm biếm chua cay khi phê phán giai cấp thống trị, những con người có chức có quyền nhưng sống tàn nhẫn, giả dối, đáng khinh. Lần đầu tiên có người dám lên tiếng và đả kích mạnh mẽ như vậy. Tuy nhiên, khi viết về những người phụ nữ, Hồ Xuân Hương lại luôn dành cho họ sự đồng cảm sâu sắc cùng với thái độ thiết tha nhất, bài thơ "Bánh trôi nước" viết về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đó là một thân phận nổi trôi, phù du và vận mệnh, cuộc sống của mình họ không được tự định đoạt mà hoàn toàn là do những người đàn ông, những người chồng của họ.

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non"

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã gợi mở những hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước. Bánh trôi nước là loại bánh làm bằng bột gạo nếp, qua bàn tay của những người nghệ nhân thì khi nặn xong chúng có hình dạng tròn trịa cùng một màu trắng đặc trưng của gạo. Ở trong bài thơ này, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước để nói về cuộc sống và số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Hiểu như thế ta có thể thấy qua hình ảnh tròn, trắng của những chiếc bánh trôi gợi ra vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thể của những người phụ nữ.

Đó chính là một vẻ đẹp tươi mới, tròn trịa, đầy sức sống "Thân em vừa trắng lại vừa tròn". Nhưng đối nghịch với vẻ đẹp đầy sức sống đó lại là một số phận, tương lai đầy mịt mờ, tăm tối"Bảy nổi ba chìm với nước non". Về ý nghĩa tả thực, ta có thể hiểu đây là là quá trình luộc chín bánh, hoàn thành bước cuối cùng . Nhưng đây cũng chỉ là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Bởi nó gợi ra số phận, cuộc đời đầy thăng trầm, biến đổi của những người phụ nữ. Như đã nói, trong xã hội xưa, sinh ra trong thân phận của người phụ nữ vốn đã là một thiệt thòi, bất công.

Bởi từ khi sinh ra đến lúc dựng vợ gả chồng thì họ hoàn toàn không được quyết định bất cứ vấn đề gì, kể cả tình yêu, đối tượng kết hôn, hạnh phúc của cả cuộc đời mình, vì trong xã hội xưa có quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", hay "xuất giá tòng phu", nghĩa là một khi đã lấy chồng thì mọi việc đều phải theo chồng. Vì vậy mà số phận thăng hay trầm đều hoàn toàn dựa vào người chồng của mình:

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son"

Đến câu thơ này thì ý niệm của hai câu thơ đầu được thể hiện, triển khai một cách rõ nét, cụ thể hơn. Nếu như những chiếc bánh trôi tròn, méo, rắn, nát đều phụ thuộc vào tay người nặn, nếu như được họ cẩn trọng, nâng niu thì khi hoàn thành chiếc bánh sẽ có hình tròn mà màu trắng trong. Ngược lại, nếu người nghệ nhân vô tâm, hời hợt thì chiếc bánh sẽ bị méo mó, và khi luộc trong nước sẽ bị vỡ.

Đối với người con gái trong xã hội xưa cũng vậy, nếu may mắn gặp được người cũng biết yêu thương, trân trọng thì cuộc sống của học sẽ hạnh phúc, vui vẻ; còn khi lấy phải người chồng độc đoán, vũ phu thì họ sẽ có cuộc sống đau khổ, bất hạnh. Nhưng dẫu cuộc sống có bất biến, phù du thì những người con gái ấy vẫn giữ được vẻ đẹp trong trắng thủy chung trong tâm hồn. Đến đây thì hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa được hoàn thiện, không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình mà vẻ đẹp tâm hồn của họ rất đáng được trân trọng.

Mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã xây dựng thành công hình ảnh của người phụ nữ xưa, đó là những người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện, không chỉ là vẻ đẹp hình thức mà còn là vẻ đẹp của tâm hồn. Dẫu có những bất hạnh, đau khổ thì vẻ đẹp tâm hồn ấy không những không mất đi mà còn sáng rực lên những tia sáng của phẩm chất, đạo đức. Thông qua bài thơ, nhà thơ cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 4
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 4

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 4
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 4

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 6

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài danh của văn học trung đại Việt Nam và bà đã để lại nhiều tác phẩm có ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nhắc đến những sáng tác tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ, chắc hẳn bài thơ “Bánh trôi nước” là một cái tên không thể thiếu:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc, cụ thể là trong nền văn học trung đại của nước ta. Cho đến hiện nay, việc Hồ Xuân Hương có lai lịch như thế nào vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ vì người ta vẫn chưa tìm được nguồn tư liệu nào tin cậy ghi chép thông tin về nhà thơ.

Tuy nhiên, nhân gian xưa nay vẫn cho là bà là con gái của Hồ Phi Diễn (1704 –?), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trong lần Hồ Phi Diễn ra Bắc để dạy học thì đã gặp gỡ và lấy một người vợ lẽ quê ở Bắc Ninh và sinh ra Hồ Xuân Hương, ông đưa gia đình mình về sống tại phường Khán Xuân ở gần Hồ Tây (thuộc Hà Nội).

Hồ Xuân Hương vốn là một người có tố chất thông minh và khả năng văn thi phú xuất sắc tuy nhiên cuộc đời lại lắm nỗi đa đoan. Bà được gả cho đi từ sớm và trải qua hai lần xây dựng gia đình, bà vẫn không có được một cuộc sống của một gia đình hạnh phúc vì cả hai lần ấy, bà đều là vợ lẽ.

Về sự nghiệp văn chương, Hồ Xuân Hương đã để lại cho đời một tập thơ “Lưu hương kí” viết bằng chữ Hán và khoảng 50 tác phẩm thơ viết bằng chữ Nôm. Chính số lượng lớn tác phẩm là chữ Nôm cùng với sự thể hiện đầy ấn tượng trong mỗi bài thơ nên bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”.

Tác phẩm “Bánh trôi nước” được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ viết về một món ăn dân dã trong đời sống dân gian là món bánh trôi nước. Thế nhưng ẩn sau lớp nghĩa về đề tài món ăn ấy lại là sự khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, đồng thời cũng góp phần lên tiếng tố cáo chế độ xã hội phong kiến bất công với họ. Phân tích bài thơ Bánh trôi nước, ta thấy đây chính là tầng nghĩa làm nên giá trị của bài thơ.

Khi chọn một món ăn truyền thống của dân tộc làm đề tài trong tác phẩm của mình, Hồ Xuân Hương đã làm cho tác phẩm của mình trở nên độc đáo trong thời đại nền văn học trung đại thường lấy những những hình ảnh mang tính chuẩn mực của mây, hoa, tuyết nguyệt là cảm hứng sáng tác.

Tuy đối tượng nhà thơ viết chỉ là một loại bánh bình dị nhưng giá trị của bài thơ không chỉ đơn thuần nằm ở việc giới thiệu một món ăn. Nếu chỉ đơn giản như vậy thì tác phẩm sẽ không thể hiện được phong cách độc đáo của một tài năng như Hồ Xuân Hương. Khi phân tích bài thơ Bánh trôi nước, ta thấy tác phẩm được hiểu theo hai lớp nghĩa: miêu tả bánh trôi nước là lớp nghĩa bên ngoài và đằng sau đó là lớp nghĩa mang giá trị nhân đạo sâu sắc: khẳng định, sự ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến đầy rẫy những ngang trái, bất công.

Hình ảnh bánh trôi nước trong câu thơ thứ nhất. Mở đầu tác phẩm, nữ sĩ viết:“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Khi phân tích bài thơ Bánh trôi nước, người đọc nhận thấy câu thơ mở đầu đã giới thiệu về hình ảnh của chiếc bánh trôi có thực trong cuộc sống. Đó là loại bánh được làm từ bột nếp, được nhào nhặn và nấu chín bằng cách luộc. Cụm từ “vừa trắng lại vừa tròn” đã gợi ra hình ảnh chiếc bánh trôi làm từ một nếp trắng mịn và có hình dạng tròn trịa, xinh xắn. Dường như khi bộc bạch về “thân em…”, chiếc bánh đang tự giới thiệu về mình đầy tự hào về cái dáng hình trắng xinh ấy. Cụm từ “thân em…” vốn là một kết cấu quen thuộc trong rất nhiều những bài ca dao trữ tình. Chẳng hạn như:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tắp vào đâu”

Hay:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Trường hợp cụm từ “thân em” xuất hiện trong những bài ca dao nói trên thường được dùng với ý nghĩa gợi lên thân phận còn trong câu thơ này của Hồ Xuân Hương, cụm từ ấy lại là chủ thể của vẻ đẹp về dáng hình. Nhưng câu thơ không đơn thuần chỉ miêu tả về hình ảnh chiếc bánh trôi. Thông qua hình ảnh của chiếc bánh ấy, Hồ Xuân Hương đã khéo léo liên tưởng đến hình ảnh của người phụ nữ…

Nhờ vào tài năng quan sát của mình, Hồ Xuân Hương đã phát hiện ra những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi với lại hình ảnh của người phụ nữ. Người phụ nữ ấy có vẻ đẹp ngoại hình nổi bật với làn da trắng trẻo, mịn màng và một vóc dáng tròn trịa, đầy đặn và phúc hậu. Thân phận chìm nổi của người phụ nữ xưa trong câu thơ thứ hai và ba: “Bảy nổi ba chìm với nước non”.

Chiếc bánh trôi sau khi đã được nặn thành hình sẽ được đem luộc. Những chiếc bánh để có thể chín được thì phải trải qua giai đoạn lúc thì “chìm” khi lại“nổi”. Tác giả đã rất cụ thể trong việc miêu tả công việc luộc bánh này. Đằng sau câu chữ miêu tả về giai đoạn đun nấu của bánh trôi, nhà thơ lại hướng đến hình ảnh của người phụ nữ với sự vất vả và gian nan. Họ vốn là những bông hoa xinh xắn, tươi mát với vẻ đẹp ngoại hình thế nhưng khi có vẻ đẹp ấy không có nghĩa là sẽ có một cuộc đời hạnh phúc…

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ với số phận giống như chiếc bánh trôi kia, cũng có lúc vui sướng nhưng cũng không khỏi bao lần khổ đau. Câu thơ có sử dụng thành ngữ “bảy nổi ba chìm” chính là để thể hiện sự long đong, vất vả của họ. “Thân em” duyên dáng, diễm kiều là thế nhưng lại phải chịu sống cơ cực, lầm than trong cảnh “nước non” trời đất rộng lớn và bao la. Câu thơ xuất hiện như một lời thở than của người phụ nữ, họ tự cảm nhận, ý thức được vẻ đẹp của mình thế nhưng phải chịu cảnh sống lênh đênh, chìm nổi, phải chịu sự bất công của xã hội.

Người phụ nữ xinh đẹp nhưng phải chịu cảnh sống bấp bênh, nổi trôi vô định và lại còn không thể tự quyết định được cuộc đời của chính bản thân mình, giống như chiếc bánh trôi kia, ngon hay dở, “rắn” hay “nát” cũng là do bàn tay người nặn tạo nên:

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Người nặn có khéo léo, cẩn thận thì chiếc bánh làm ra sẽ thơm ngon nhưng nếu người nặn vụng về thì tất yếu chiếc bánh đó đôi khi bị vỡ vụn. Hình ảnh tả thực này cũng có mối liên hệ với thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không thể tự quyền quyết định cuộc đời của mình. Dù là sung sướng hay khổ đau, bất hạnh hay viên mãn thì cũng không phải do họ tự định đoạt mà điều đó phụ thuộc vào “kẻ nặn”, vào những con người khác trong xã hội…

Những đối tượng, những điều cho phối, quyết định cuộc đời người phụ nữ được nhắc tới ở đây có thể là người nắm quyền hành, những người đàn ông và thậm chí là những tập tục hà khắc của một xã hội có sự bất bình đẳng nam nữ. Khi phân tích bài thơ Bánh trôi nước, ta thấy đây mới chính là điều mà tác giả hướng đến thông qua sự đề cập về hình ảnh chiếc bánh trôi.

Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng của người phụ nữ trong câu thơ cuối. Dù sống trong hoàn cảnh bị phụ thuộc vào người khác, dù phải mang thân phận lênh đênh, nổi chìm nhưng những người phụ nữ ấy lại vẫn sống và giữ gìn trọn vẹn những phẩm chất vô cùng quý giá của mình: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

Chiếc bánh trôi khi chín thì lớp bột trắng bên ngoài sẽ là lớp áo bảo vệ cho nhân bánh đỏ bên trong. Và chính nhân bánh đỏ ngọt bên trong ấy sẽ làm cho hương vị của chiếc bánh trở nên thơm ngon, hấp dẫn. Chiếc bánh trải qua giai đoạn chìm nổi và có thể “rắn” và bị nát dưới bàn tay của “kẻ nặn” nhưng nhân bánh bên trong – “tấm lòng son” của nó trước sau vẫn ngọt ngào.

Người phụ nữ ngày xưa cũng như thế, dù cho họ phải sống một đời vô định, bấp bênh chìm nổi và nhất là phải sống phụ thuộc vào người khác nhưng có một điều chắc chắn rằng những khổ đau, bất hạnh ấy sẽ không thể nào làm cho những người phụ ấy mất đi những vẻ đẹp đáng quý. Cụ thể hơn, họ sẽ vẫn luôn giữ gìn “tấm lòng son” của sự thủy chung, nghĩa tình.

Câu kết của bài thơ đặt trong mối quan hệ với câu thơ thứ ba ở phía trên đã tạo nên ý nghĩa tăng tiến cho nội dung câu thơ thông qua cặp từ mang tính liên kết là “dù” – “mà”. Chính nhờ ý nghĩa của cặp từ liên kết này mà tiếng than chua xót cho phận mình được thể hiện trong những câu thơ trước đó đã nhường chỗ cho sự khẳng định, đôi khi còn là lòng quyết tâm mà người phụ nữ thể hiện trong việc sẽ giữ gìn vẻ đẹp của phẩm giá con người đến cùng mà không có một chút gì thay đổi.

Dù cho cuộc đời có lắm những giông gió, bão tố, dù cho có bị mọi người ức hiếp, chi phối thì “tấm lòng son” của người phụ nữ chắc chắn không không bao giờ suy chuyển. Bài thơ kết thúc ở màu son đỏ thắm nồng của một vẻ đẹp cao quý. Chính sự son sắt, nồng thắm đó đã giúp cho người phụ nữ hoàn toàn có thể kiêu hãnh về những vẻ đẹp của mình, tấm lòng son vốn là phẩm chất đáng quý của người phụ nữ và một khi đã trải qua những thách thức bởi những ngang trái, gian nan trong cuộc sống chắc chắn nó sẽ trở nên rực rỡ hơn và khiến cho người phụ nữ trở nên hoàn hảo hơn.

Tác phẩm đã gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc ở cả nội dung và đặc điểm nghệ thuật của nó. Điều đó được thể hiện ngay từ phần mở đầu của bài thơ bởi sự xuất hiện của cụm từ “thân em” rất quen thuộc trong ca dao. Không chỉ vậy, bài thơ còn thành công trong việc xây dựng hình ảnh về người phụ nữ luôn có ý thức về vẻ đẹp cũng như những phẩm chất đáng quý của mình. Ngoài, cách chọn đề tài độc đáo, thủ pháp nhân hóa, ẩn dụ được sử dụng khéo léo, linh hoạt đã giúp cho nhà thơ thể hiện được những phẩm chất cao quý của người phụ nữ và phần nào thể hiện sự ngang trái, bí bách của xã hội phong kiến.

Thông qua bài thơ “Bánh trôi nước”, Hồ Xuân Hương đã thể hiện được sự ca ngợi đối với những vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ. Đồng thời cũng cất lên tiếng nói tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến áp bức, vùi dập không chút tiếc thương và đã tước đi quyền được lựa chọn sống hạnh phúc ở họ. Chính vì vậy, bản thân mỗi người đọc sẽ thấu hiểu và đồng cảm với những phận đời phụ nữ trong xã hội xưa.

Tác phẩm này của Bà chúa thơ Nôm khi chuyển tải những ý nghĩa lớn lao đó đã trở thành một trong những tác phẩm độc đáo của nhà thơ. Nhất là khi chính bà là người mạnh dạn nói lên tiếng nói của phái nữ thì bài thơ lại càng tạo nên ấn tượng mạnh trong lòng người đọc bởi cá tính riêng biệt của người sáng tác.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 6
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 6

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 6
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 6

Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 9

Bánh trôi nước là bài thơ nổi tiếng, tiêu biểu cho tư tưởng nghệ thuật của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

Bài thơ bánh trôi nước mang tính đa nghĩa. Nghĩa đen là tả chiếc bánh trôi được làm từ bộ nếp, hình dáng tròn, màu sắc “trắng”, nhân đường phên (đỏ son). Tùy thuộc vào “tay kẻ nặn” khéo léo hay vụng về mà chiếc bánh trôi có thể rắn hay nát. Khi luộc cho bánh vào nước sôi, quan sát thấy “bảy nổi ba chìm” là bánh chín.

Bài thơ Bánh Trôi Nước ca ngợi vẻ đẹp và long thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt NamĐây là bài thơ vịnh vật tài tình, tả chính xác chiếc bánh trôi nước. Đồng thời còn khơi gợi những liên tưởng thú vị nơi người đọc. Nhưng nếu chỉ dừng ở lớp nghĩa bóng thì có lẽ bài thơ đã không tồn tại lâunhư vậy. Mà ẩn sau mỗi câu chữ là cả một giá trị tuyệt vời: Ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất của người phụ nữ. Bà cảm thông với thân phận bị phụ thuộc của họ. Đây là ý nghĩa chính quyết định giá trị của bài thơ bánh trôi nước.

Bài thơ Bánh trôi nước mở đầu bằng mô típ quen thuộc trong ca dao: “Thân em”. Cách vào đề vừa duyên dáng, tự nhiên, vừa ngầm hé mở với người đọc. Bài thơ sẽ đề cập tới một đề tài quen thuộc của ca dao: than phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tuy mở đầu bằng hai từ mang cảm hứng than than nhưng giọng thời vẫn vang lên đầy kiêu, tự hào.

Điểm nhấn nằm ở những từ “vừa… lại vừa”. Người phụ nữ trong bài thơ hẳn hãnh diện về vẻ đẹp “trắng tròn” của mình lắm! Mà không hãnh diện sao được, một làn da trắng này, một than hình cân đối, xinh xắn nữa. Cô gái quả là đẹp. Một vẻ đẹp hoàn hảo gợi ta nhớ đến nàng Thúy Vân trong Truyện Kiều.

Vân xem trang trọng khác vời

Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Đáng lẽ với vẻ đẹp hoàn hảo như vậy, cô phải được hạnh phúc và sung sướng. Nhưng số phận của cô trong bài thơ cũng là bi kịch của bao người phụ nữ xưa:

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

Vừa mới kiêu hãnh, giọng thơ đã vội ngấm cái ngậm ngùi, xót xa quen thuộccủa những cuộc đời “Hồng nhan bạc mệnh”.

Câu 2 và câu 3: Cuộc đời đau khổ và than phận bị phụ thuộc của người phụ nữ. Bảy nổi ba chìm với nước non. Thành ngữ bảy bổi ba chìm thường được dùng để nói về sự trôi nổi, lênh đênh của kiếp người. Hai chữ “nước non” ý chỉ hoàn cảnh sống, cuộc đời, xã hội. Thành ngữ kết thúc ở chữ chìm càng gợi cho người đọc thấy cuộc đời người phụ nữ sao mà cay đắng, xót xa.

Rắn nát mặc dầu ta kẻ nặn. Một lần nữa khái quát được điểm nổi bật của cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đó là than phận bị phụ thuộc. Chiếc bánh trôi rắn hay nát phụ thuộc rất hiều vào “tay kẻ nặn” thì thân phận người phụ nữ cũng vậy. Sự hạnh phúc hay đau khổ của họ phụ thuộc vào người nam giới trong xã hội. Xã hội phong kiến đã trao cho nam giới đến lắm quyền: Quyền năm thê bảy thiếp và cả quyền hạnh phúc hay bất hạnh. Dùng “tay kẻ nặn” mà chẳng phải là “tay mình nặn” càng giúp người đọc cảm nhận sâu sắc than phận phụ thuộc của họ.

Tuy nhiên, giọng điệu thơ không dừng lại là lười than thân trách phận thấm đẫm nước mắt. Mà còn là lời giãi bày sự bền gan trong tủi cực mà vẫn kiên trinh, thách thức. Cụm từ “nước non” được sử dụng đầy ẩn ý. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương luôn đối mặt với không gian kì vĩ:

Nín đi kẻo thẹn với non sông

Trơ cái hồng nhan với nước non

Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương chẳng bảo giờ cúi nhận mình là hạt cơm nguội để chàng dùng trong khi đói lòng. Là chổi đầu hè để ai mưa nắng đi về chùi chân… Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao đầu, nhìn thẳng vào số phận, đối chọi với khó khăn của số phận.

Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Quan hệ từ “mà” khép lại những bất hạnh, trái ngang. Mở ra cho người đọc thấy một vẻ đẹp rực rỡ hơn, toàn bích hơn. Vẻ đẹp đó tựa lửa thử vàng, gian nan, vất vả vẫn sáng ngời: “vẫn giữ tấm lòng son”. Bài thơ kết thúc ở màu đỏ son, nồng thắm, ở vẻ đẹp khác – một vẻ đẹp mà không một thế lực nào, một sức mạnh nào có thể làm hoen ố, mai mọt. Đó là vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Tấm lòng son ở đây chính là tấm lòng son sắt, thủy chung, ấm áp, nhân hậu của những người phụ nữ Việt Nam.

Với kết cấu chặt chẽ và độc đáo, sự đối lập giữa than phận và phẩm chất, bài thơ Bánh trôi nước đã tạo ấn tượng về một vẻ đẹp hoàn mĩ của người phụ nữ, một bản lĩnh Xuân Hương kiên cường, mạnh mẽ dám nhìn thẳng vào số phận, vượt lên số phận và thách thức với hoàn cảnh sống.

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 9
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 9

Bài văn phân tích tác phẩm Bánh trôi nước số 9
Bài văn phân tích tác phẩm "Bánh trôi nước" số 9

Đăng ngày 23/07/2024, 36 lượt xem