Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" của Đoàn Thị Điểm

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 8

Chinh phụ ngâm khúc hay còn gọi là chinh phụ ngâm có nghĩa là khúc ngâm về nỗi lòng sầu thương,nhớ nhung của người vợ trẻ có chồng ra trận được Đặng Trần Côn là người làng Nhân-Mục nay thuộc Thanh Xuân hà Nội sáng tác vào (1741-1742) lúc này thời kì phong kiến đang trong giai đoạn rối ren suy thoái,trong khi đó các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi dậy ở khắp nơi.Triều đình ra sức đàn áp,đất nước loạn lạc kinh thành rối loạn. Đứng trước hoàn cảnh đó Đặng Trần Côn đã dùng ngòi bút của mình để bày tỏ sự cảm thông và xót thương chân thành làm rung động lòng người.chinh phụ ngâm khúc nguyên bản được viết bằng chữ hán sau đó được nhiều người dịch lại thành chữ nôm.

Bản diễn Nôm này là của Đoàn Thị Điểm (1705-1748) một phụ nữ có tài có sắc. Xuyên suốt đoạn ngâm khúc là tiếng nói ai oán đối với chiến tranh của người chinh phụ,chung quy chỉ có nhớ hết nhớ lại sầu.Tác giả thể hiện nghệ thuật độc đáo đi suốt khúc ngâm là miêu tả rất tinh tế diễn biến phức tạp tâm trạng của nhân vật mà không hề lặp đi lặp lại một cách đơn điệu nhàm chán. Bốn câu thơ đầu:tả tâm trạng của người vợ trẻ sau phút chia ly với tâm trạng chơi vơi,buồn bã qua nghệ thuật đối rất chỉnh:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc,trải ngàn núi xanh.

Người còn lại thì về mỗi lúc mỗi xa.Cuộc chia ly diễn ra chàng thì đi vào cõi xa mưa gió còn thiếp thì về với cảnh nhà không chiếc bóng,vò võ năm canh.Bao nhiêu gian truân vất vả thậm chí là hiểm nguy đối với người ra đi chứa đựng trong mấy cõi từ xa mưa gió rất giàu khả năng gợi tả khiến cho người đọc cảm thấy cái gì đó trông trênh khó lường.Chàng ra đi nguy hiểm luôn rình rập không biết khi nào mới trở về những điều dễ nhận biết là công danh thì hão huyền còn chết chóc lại là hiện thực,một hiện thực nghiệt ngã phũ phàng khó bề tránh khỏi. Người đi thì khổ người ở lại nào có sung sướng gì,khi thiếp trở về buồng cũ chiếu chăn vẫn vương vấn hơi ấm nồng nàn của tình vợ chồng thì tình cảnh lại trớ trêu như xoáy vào nỗi đau người chinh phụ người ra đi kẻ ở lại.Kể từ đây nàng sẽ phải sống trong nỗi nhớ,nỗi buồn tủi nhục và cô đơn suốt những tháng năm xa cách đầy lo lắng đợi chờ và hy vọng.

Nỗi sầu tràn ngập người ở lại và dường như nó thấm cả sang đất trời,cỏ cây “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”(truyện kiều –Nguyễn Du).Bóng dáng người đi đã nhạt nhòa khuất lấp cố dõi mắt nhìn theo những thứ nhìn thấy cũng chỉ là màu mây biếc,núi xanh trải dài vô tận nỗi buồn không thể nguôi ngoai.Hình ảnh mây xanh núi biếc có tính ước lệ thường thấy trong thơ cổ đã được tác giả vẽ lên cảm xúc chân thành của người trong cuộc thêm sống động,tự nhiên. Bốn câu thơ tiếp:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Nỗi nhớ nhung dường như không hề tiêu tan mà nó còn ở mức độ cao hơn sâu đậm hơn đó là nỗi nhớ dằng dặc nỗi đau hai đầu xa cách.Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối trong những câu thơ bảy chữ kết hợp với cách sử dụng điệp từ và đảo ngữ uyển chuyển ở cặp câu lục bát:Bến Tiêu Dương cách Hàm Dương mấy trùng,gợi tình cảm tha thiết mặn nồng quyến luyến không rời. Tác giả đã khéo léo mượn cảnh vật để nói đến sự xa xôi thể hiện tâm trạng nhớ nhung đang chất chứa đong đầy trong lòng nhân vật.

Đồng thời cũng gửi vào đó thái độ bất bình đối với chiến tranh lúc bấy giờ đáng lẽ ra những đôi lứa trẻ trung phải được hạnh phúc sum vầy bên nhau nhưng chỉ vì chiến tranh mà phải chia ly kẻ ra đi người ở lại,biết không chừng lại là sự chia ly mãi mãi.Nỗi bất bình ấy chính là tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa của riêng tác giả và của chung nhân dân lúc bấy giờ. Nếu ở hai khổ thơ trên là nỗi nhớ và sự ngăn cách thì ở khổ thơ cuối đó là sự ngăn cách mấy trùng thăm thẳm: Cùng trông lại mà cùng mà chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Sự chia ly đã diễn ra trong khi tình cảm vẫn còn tha thiết mặn nồng đôi vợ chồng trẻ muốn gắn bó mà không được gắn bó,muốn không phải chia ly mà vẫn phải xa cách.Ở khổ thơ này tác giả vẫn sử dụng biện pháp nghệ thuật đối,điệp ngữ để gợi tả nỗi sầu thương tột độ trong lòng người chinh phụ.Lối ngắt nhịp linh hoạt trong từng câu thơ:Cùng chồng lại/mà cùng chẳng thấy…lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Đã góp phần bộc lộ rõ hơn nỗi xót xa của người ra đi kẻ ở lại.

Bóng người ra đi đã hòa vào trong ngàn dâu xanh ngắt.Ngàn dâu xanh ngắt khiến cho người đọc liên tưởng đến một sức sống tràn trề nhưng giờ đây trong tình cảnh này chỉ gợi lên một không gian thăm thẳm,thấm đượm nỗi sầu ly biệt.Câu thơ cuối “Lời chàng ý thiếp ai sầu hơn ai” nhấn mạnh nỗi sầu thương tột độ của người chinh phụ đành gửi vào gió vào mây nỗi nhớ niềm thương khó tả giãi bày tâm tư của mình.

Bằng một nghệ thuật ngôn từ vô cùng điêu luyện đặc biệt là nghệ thuật dùng điệp từ rất mực tài tình,đoạn ngâm khúc cho thấy nỗi sầu chia ly của người chinh phụ lúc tiễn chồng ra trận.Nỗi sầu này vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa,vừa thể hiện niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 8
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 8

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 3

Trong cuộc đời con người, khi phải chia tay tiễn biệt - người thân, hoặc bạn bè - ai mà chẳng buồn rầu. Trong các cuộc chia tay, đưa tiễn, có lẽ cuộc tiễn đưa người thân ra trận để lại trong lòng người nhiều nỗi buồn lo nhất. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc đã ghi lại cuộc chia tay như thế và hơn thế là : người chồng ấy ra đi không phải vì dân vì nước mà vì quyền lợi của giai cấp thống trị, ra đi để đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân ở nửa đầu thế kỉ XVIII trong xã hội phong kiến Việt Nam. Do đó, khi tiễn chồng ra đi, người vợ đã vô cùng buồn lo, sầu muộn.

Đoạn trích Chinh phụ ngâm khúc mà chúng ta được dọc trong sách Ngữ văn 7, tập một chính là một cuộc chia li ngập tràn nỗi buồn lo sầu muộn đó:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

...

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Điều đầu tiên ta cần lưu ý là: Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc do ông Đặng Trần Côn sáng tác (khoảng năm 1741 - 1742) bằng chữ Hán, theo thể thơ tự do cổ điển. Sau đó, tác phẩm được một nữ sĩ cùng thời là bà Đoàn Thị Điểm dịch sang tiếng Việt (viết bằng chữ Nôm), theo thể thơ song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ do chính người Việt Nam chúng ta sáng tạo ra. So với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú và lục bát, thơ song thất lục bát có nhạc tính phong phú hơn. GS. Phan Ngọc từng nhận xét : "Cần phải có hình thức ấy, tình cảm mới có thể mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để toả ra trong câu bát dài nhất rồi lại vươn lên trong một khổ mới, cứ thế, đợt sóng tình cảm lên xuống ãn khớp với hình thức của ngôn ngữ".

Tác phẩm Chinh phụ nqâm khúc là một bài thơ song thất lục bát, dài tới 408 câu đã thể hiện muôn vàn đợt sóng tình cảm của người chinh phụ - người vợ có chồng ra trận. Đoạn thơ trích nói trên tập trung thể hiện tình cảm hai vợ chồng trong những ngày đầu chia li. Đoạn thơ gồm ba khổ song thất lục bát, mười hai câu thơ, mổi khổ ghi lại một cung bậc tình cảm. Khổ thơ thứ nhất:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Ghi cảm xúc phút đầu chia li. Tác giả dùng nghệ thuật đối lập : Chàng thì đi... thiếp thì về, miêu tả thật chính xác cảnh hai vợ chồng, hai phương trời đối nghịch mỗi lúc một cách xa nhau. Chồng đi vào cõi xa mưa gió biết bao gian khổ. Còn vợ thì buồng cũ chiếu chăn, sống cảnh đơn độc, vò võ, mòn mỏi với những đồ vật cũ kĩ, tàn tạ. Sự ngăn cách đã là sự thật khấc nghiệt. Nỗi sầu chia li nặng nề tưởng như phủ lên màu biếc của trời mây, trải vào màu xanh của núi ngàn. Các động từ "tuôn", "trải" kết hợp hình ảnh mây biếc, núi xanh gợi lên cái mênh mang, nét vần vũ, quằn quại của thiên nhiên vũ trụ khiến nỗi buồn chia li thêm da diết, rộng lớn tưởng đến không cùng. Nỗi buồn chia li tăng dần, trở thành nỗi sầu muộn dâng lên tràn ngập cả cõi lòng kẻ ở người đi.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảng lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Những địa danh Hàm Dương, Tiêu Tương không phải dùng để tả thực mà chỉ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai vị trí xa cách của đôi vợ chồng. Ở khổ thơ thứ hai này, cũng vẫn bằng cách nói tương phản "Chàng còn ngảnh lại... Thiếp hãy trông sang" phối hợp cách điệp từ và đảo vị trí của hai địa danh "Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương, Bên Tiêu Tương - Cây Hàm Dương", tác giả muốn chia đều cảm xúc của hai người, nhấn mạnh nỗi sầu xa cách. Tinh cảm buồn thương, nhung nhớ cứ tăng dần, tăng dần.

Điều đó cho thấy sự chia li ở đây là chia li về cuộc sống và thể xác, còn trong tình cảm, tâm hồn hai vợ chồng ấy vẫn gắn bó thiết tha. Họ vẫn hướng về nhau, dõi theo, để tìm nhau, nhìn thấy nhau. Nhưng càng hướng vé nhau thì không gian, thời gian càng đẩy họ xa nhau. Ở đoạn trên chỉ là "cách ngăn" đến đây sự cách ngăn thành "cách mấy trùng". Do dó, lời thơ không chí biểu hiện nỗi sầu chia li mà còn nhấn mạnh sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia xa, càng dõi nhìn nhau, càng không thấy nhau... Đến khổ thơ thứ ba thì nỗi sầu chia li, cảnh nghịch chướng càng tăng thêm nữa:

Càng trông lại mà càng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Ở đoạn này, nghệ thuật đối nghịch được bổ sung bằng những điệp từ, điệp ngữ rất ấn tượng : cùng, thấy, xanh xanh, xanh ngắt, ngàn dâu,... Ở trên, ít ra còn có tên hai địa danh Hàm Dương và Tiêu Tương gợi một ý niệm về địa điểm cụ thể, về vị trí hai người để có thể hướng tới nhau. Đến đây, mọi địa điểm, vị trí bị xoá mờ, hai hình hài chàng và thiếp cũng bị xoá mờ. Chỉ còn lại ngàn dâu, rất nhiều ngàn dâu nối nhau "xanh xanh" rồi "xanh ngắt" mênh mông khắp trời. Choán tất cả vũ trụ là màu xanh, xanh đến rợn ngợp, xanh não né, nhức buốt tận đáy lòng. Từ ghép "xanh ngắt" với thanh "sắc" ở tiếng "ngắt" như mũi kim chích vào da thịt vậy.

Tất cả, mười một câu thơ ở trên tập trung tả cảnh, tả cử chỉ của đôi vợ chồng, từ đó biểu hiên tâm tư, tình cảm. Đó là kiểu văn biểu cảm, mượn cảnh để biểu lộ tâm hổn. Qua cảnh vật và sự việc, người đọc thấm thìa cảm xúc của nhân vật và của tác giả. Nhân vật trong đoạn thơ này là hai vợ chồng người lính trận, chủ yếu là nhân vật chinh phụ, người chồng ra trận. Họ chia li về hình hài thể xác, nhưng tình thương và nỗi nhớ, sự gắn bó thì không chia li, rời cắt. Họ cố dõi theo nhau, tìm nhau để mãi mãi thấy nhau. Vậy mà càng cố gắng, họ càng tuyệt vọng. Do đó, đến câu thơ cuối cùng, một tiếng kêu đã cất lên:

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Không dùng cách tả cảnh ngụ tình nữa, nhà thơ trực tiếp nói lên tiếng lòng của nhân vật và tiếng cảm thương của chính mình. Từ "sầu" trong câu thơ cuối này như đúc kết lại tất cả những cung bậc tình cảm ở mười một câu thơ trên. Nỗi buồn li biệt đã nhân lên, dâng trào, trở thành một khối sầu thương, trĩu nặng trong tâm hồn người chinh phụ.

Đoạn ngâm khúc về cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong tác phẩm Chinh phụ ngâm cho ta thấy: nỗi sầu chia li của người chinh phụ lúc tiễn chồng ra trận đã như nhuốm cả vào mây, trời, núi non, cảnh vật, cây cối. Nỗi sầu này vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa, vừa thể hiện niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Đoạn thơ có giá trị nhân đạo, nhân văn thấm thìa, về nghệ thuật, doạn thơ cho ta biết một thể thơ dân tộc với nhiều từ ngữ gần gũi, nhiều biện pháp tu từ (đối lập, diệp từ,...) kết hợp hài hoà với tính nhạc của những dòng thơ song thất lục bát rất linh hoạt, vừa biểu cảm vừa truyền cảm.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 3
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 3

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 7

Tác phẩm “Sau phút chia ly” trích trong Chinh phụ ngâm khúc hiện nay đoạn trích này chưa rõ nguồn tác giả là ai. Tuy nhiên đây là đoạn trích hay thể hiện nỗi lòng của người con gái trong thời phong kiến khi cho chồng đi chinh chiến phương xa.


Thông qua đoạn trích tác giả muốn tố cáo tội ác phi nghĩa, trong thời kỳ xưa khiến nhiều người dân lâm vào cảnh lầm than, cơ cực. Nhiều người phụ nữ phải xa chồng, nhiều người chồng phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy nơi chiến trường. Giây phút chia ly đầy đau đớn, nhiều xót xa, luyến tiếc của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả đã diễn tả tinh tế tâm trạng kẻ ở người đi.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh

Trong bốn câu thơ này tác giả đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người vợ trẻ khi tiễn người chồng của mình ra trận. Một tình cảnh khắc nghiệp, thê lương tới tê tái lòng người .

Người vợ trẻ nhìn theo bóng dáng người chồng thân thương của mình trong không gian mịt mờ, mênh mông, chỉ thấy sự chia ly cách biệt dài đằng đẵng không thấy sự tương phùng hiện diện. Một tâm trạng buồn đau tới não lòng, sự vấn vương lưu luyến thể hiện trong từng câu từng chữ của đoạn trích.

Tác giả đã vô cùng nhân văn khi đồng cảm với những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến, sự cô đơn mòn mỏi của người chinh phụ khi tuổi xuân phơi phới phải vùi chôn một mình vò võ suốt năm canh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Trong khổ thơ này nghệ thuật đối lập được tác giả sử dụng vô cùng tinh tế thể hiện sự tiêu điều, ảm đạm của cảnh biệt ly, kẻ đi người ở. Trong không gian bao la mênh mông, trong giây phút tiễn biệt đầy xúc động.

Hình ảnh sự chờ trông ngóng chờ của người con gái, hiện lên trong những câu thơ làm nhói lòng người ra đi, khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn lòng cho tâm sự của người phụ nữ cho chồng đi viễn xứ.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Trong bốn câu thơ này tác giả đã biến đổi phong cách thơ linh hoạt, người con gái vò võ một mình trong căn phòng hoang lạnh thiếu hơi ấm, vòng tay che chở của người đàn ông. Sự cô đơn gối chiếc, người chồng nơi xa không biết khi nào trở lại.

Tuổi xuân của người con gái thì chỉ có giới hạn nhất định, nhưng chiến tranh đã không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Không cho họ sống những thời khắc tuổi xuân hạnh phúc, mà bắt người con gái phải sống trong hiu quạnh, hoang lạnh mỗi đêm.

” Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? một câu hỏi tu từ làm người đọc cảm thấy rưng rưng xúc động. Người con gái đang tự hỏi chính mình. Người con gái đã tự hỏi nỗi cô đơn trong mình. Câu thơ nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, sầu muộn của người con gái trong những đêm xuân vò võ chờ chồng trong mòn mỏi.

Đoạn trích này thể hiện nỗi niềm, tâm sự của người con gái khi tiễn chân chồng đi đánh trận. Những giờ phút tiễn biệt, bi thương nhiều nước mắt. Thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả với số phận những người chinh phụ thời xưa.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 7
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 7

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 10

“Chinh phụ ngâm khúc” là khúc ngâm của người vợ có chồng đi chinh chiến ở nơi xa. Tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả tài hoa Đoàn Thị Điểm đã để lại cho ta một bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến rất có giá trị

“Chinh phụ ngâm khúc” nguyên văn sáng tác bằng chữ Hán. Sau đó được nhiều dịch giả dịch sang chữ Nôm. Trong đó, bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được cho là bản dịch xuất sắc nhất, chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa và giá trị của văn bản. Thậm chí, bản dịch còn phổ biến và nổi tiếng hơn cả bản gốc.

Nhân đầu đời Cảnh Hưng, việc binh nổi dậy, người ta đi đánh giặc phải lìa nhà. Triều đinh thối nát cùng cực, nhân dân bị đẩy vào cuộc sống vô cùng khốn khó. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi lên. Các tướng lĩnh được huy động tung đi các nơi để đàn áp phong trào. Tác phẩm được viết lên từ chính biến động lịch sử, cuộc chiến tranh phi nghĩa này nhằm lên án, tố cáo chiến tranh.

Chinh phụ ngâm khúc là Khúc ngâm của người chinh phụ, là lời than thở của một phụ nữ có chồng ra chiến trường. Tác phẩm để cập đến vấn đề nhức nhối của thòi đại. Đó là mâu thuẫn giữa quyền sống, quyền hưởng hanh phúc với chiến tranh phi nghĩa.

Đoạn trích Sau phút chia li nằm ở phần đầu khúc ngâm từ câu 53 đến câu 64. Đoạn ngâm cho thấy tâm trạng cô đơn và nỗi sầu của người chinh phụ sau lúc tiễn đưa chồng ra trận. Nỗi sầu này vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa, vừa thể hiện niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Bốn câu đầu diễn tả thực trạng cuộc chia li và nỗi sầu chia li ấy nặng nề như “phủ mây biếc, trải ngàn núi xanh”:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh

Phép đối được sử dụng triệt để: Chàng thì đi >< Thiếp thì về, Cõi xa mưa gió >< Buồng cũ chiếu chăn. Một câu thơ thì nói về chàng, một câu thơ riêng biệt nói về nàng như tạo nên vết cứa rõ ràng: chia ly. Chàng thì đi về nơi biên ải xa xôi, một mình đối mặt với bao khó khăn, gian nan chồng chất. Thiếp thì về với khuê phòng đầy ắp kỉ niệm, với nỗi nhớ mênh mang. Vừa mới đây thôi khuê phòng đầy ắp tiếng cười hạnh phúc. Bây giờ đã quanh vắng. hạn phúc lứa đôi chưa ấm gối mà cả hai cùng cô đơn, lẻ bóng.

Câu thơ thứ ba khuyết chủ ngữ, động từ “đoái trông” được đưa lên đầu câu gợi nên hình ảnh người chinh phụ với đôi mắt dăm đắm dõi theo bước đường của chinh phu. Nhưng bóng người chinh phu đâu thấy, trải theo cái nhìn lưu luyến của nàng là thiên nhiên mênh mông: “Tuôn màu mây biếc trái ngàn núi xanh”

Hình ảnh thiên nhiên mĩ lệ. Nhưng đó là tầng tầng lớp lớp cách chia. Không gian rợn ngợp sắc xanh chia phôi. Không gian ấy như đang tuôn trải ra mãi hút lấy bóng hình người chồng thân yêu của người chinh phụ. Nổi nhớ, nỗi cô đơn cũng cứ thế mà tuôn mãi, trải mãi theo không gian vời vợi, thăm thẳm đó.

Hình ảnh người chinh phu được tái hiện qua nỗi nhớ nhung, sầu muộn của người chinh phụ. Đó là hình ảnh một con người đang phải dấn thân vào chốn hiểm nguy nơi sa trường, phải xa người vợ trẻ yêu dấu. Tâm trạng của người chinh phu là tâm trạng lưu luyến, đầy nhớ thương. Với người ở lại, sự nhung nhớ bao giờ cũng đi kèm với nhẩm tính: người đi xa đã đến nơi nào. Người chinh phụ cũng tường ra nơi mà chồng đang đến:

Chốn Hàm kinh chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Nhẩm tính nơi đến và cũng là thể hiện niềm lưu luyến, thiết tha gắn bó: “chàng còn ngành lại / thiếp hãy trông sang”, những hư từ “hãy “, “còn” đều nhằm tả sự tiếp diễn, cùng thể hiện niềm nhớ nhung của cả người chinh phu và chinh phụ. Nhưng ngay cả trong liền tưởng ấy, vết cứa chia ly vẫn ám ảnh, bủa vây ngập kín. Điệp từ “cách” (lặp 2 lần) và điệp ngữ “Hàm Dương”, “Tiêu Tương” quẩn quanh, quanh quẩn, càng gợi nên sự xa cách và nỗi buồn vời vợi. Ánh mắt đôi lứa thiếu niên vừa thoáng hi vọng đã vội tắt trong vô vọng:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Nếu ở khổ thơ trên khoảng cách có vẻ được định hình thì câu thơ dưới khoảng cách lại được đẩy ra vô tận. Thời gian của cuộc tiễn đưa này dường như là vô hình. Nó đã vượt lên trên thời gian bởi đây không phải là cuộc tiễn đưa đầy vương vấn giữa hai người, cũng không phải là cuộc chia tay đột ngột giữa đoàn quân mà là cuộc chia tay từ đáy sâu tâm hồn, cho nên cùng trông lại mà cùng chẳng thấy. Quả là một cuộc tiễn đưa mà như ba lần đưa tiễn

Giữa họ bây giờ không chỉ là Hàm Dương và Tiêu Tương nữa mà là “mấy ngàn dâu” khiến cho không gian càng mênh mông, vời vợi. Hình ảnh chinh phu và chinh phụ thật đáng thương! Họ thiết tha được gắn bó, yêu thương nên ánh mắt cả hai đều hướng về nhau, tìm nhau: “cùng trông lại”. Nhưng cả hai đều gặp nghịch cảnh chia phôi, khao khát gắn bó mà chẳng được.

Họ cùng hướng về nhau mà chẳng thấy nhau, chỉ thấy sắc xanh nhàn nhạt, mờ mờ bảng lảng như khói phủ khắp không gian (xanh xanh), sắc xanh ấy thoắt chốc biến thành “xanh ngắt” đậm và gắt. Đó là sắc màu nhuốm tâm trạng. Đó là sắc xanh của trời cao đất rộng, nơi mà nỗi buồn, niềm cô đơn càng lúc càng se thắt lại, kết đọng đến nhức nhối trong một tiếng “sầu”.

Sự chia li ở đây là cuộc sống thể xác nhưng tình cảm vẫn gắn bó, thiết tha. Do đó, không chỉ nói đến việc chia li mà còn nói đến sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia li. Nếu đoạn trên, sự xa cách còn có địa danh để đo sự xa cách thì ở khổ thơ cuối, sự xa cách hoàn toàn mất hút vào màu xanh rồi màu xanh ngắt. Màu xanh ở đây không liên quan gì đến niềm hi vọng mà gợi tả cảnh trời cao, đất rộng, thăm thẳm, mênh mông, nơi gửi gắm nỗi sầu chia li. Chữ “sầu” câu cuối đúc kết thành một núi sầu, một khối sầu vạn cổ.

Điệp ngữ vòng “cùng”, “thấy”, “ngàn dâu” tạo nên nhịp điệu chậm, thể hiện không gian xa cách mỗi lúc càng bát ngát, rộng lớn hơn, chỉ ra hiện thực phũ phàng, đồng thời cũng diễn tả nỗi niềm miên man mỗi lúc một vô vọng của người vợ trẻ. Câu hỏi tu từ cuối bài trực tiếp nói lên nỗi sầu. Hỏi không phải để so sánh xem ai buồn hơn ai ? Mà để khẳng định mối u sầu, quẩn quanh, bế tắc, cứ đẩy lên, cứ rối lên, thổn thức hoài trong lòng người chinh phu chinh phụ. Câu hỏi tu từ ấy cứ vương vít mãi trong lòng người đọc. Yêu thương tha thiết đến thế mà phải chia li! Cuộc chiến nào mà chi sau phút chia li kẻ đi và người ở lại đã sầu đau, vô vọng? Cuộc chiến nào mà nỡ chia rẽ hạnh phúc lứa đôi ? Hẳn đó chẳng phải là cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa. Thế nhưng, nào phải như thế. Lòng tham của kẻ tàn bạo đã đẩy biết cao con người phải bước vào cuộc binh đao tàn khốc. Ý nghĩa tố cáo chiến tranh toát lên từ ý thơ này.

Bút pháp tiêu biểu của đoạn trích tả cảnh ngụ tình. Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, đẹp nhưng mang tính ước lệ (mây biếc núi xanh, Hàm Dương, Tiêu Tương, ngàn dâu) tạo ấn tượng về thiên nhiên dường bị xoá nhoà hết nét cụ thể. Nổi bật trên nền thiên nhiên đó là tâm trạng buồn bã sau phút chia ly của chinh phu chinh phụ.


Sau phút chia li là một đoạn thơ đầy ứ nước mắt và nỗi khổ đau. Càng cảm thông cho nỗi đau chia biệt của người chinh phụ, ta càng căm phẫn thế lực thống trị đã nhẫn tân gây nên cảnh chia lìa, phá tan cuộc sống yên bình và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn thơ cũng là tiếng nói, là tấm lòng yeu thương con người thiết tha của tác giả Đặng Trần Côn.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 10
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 10

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 4

Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li đã được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ có những dòng về sự ngóng trông của người vợ có chồng đi chinh chiến: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn ngoài vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn được. (Người con gái Nam Xương). Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết rất cảm động về sự chia tay đau buồn của đôi vợ chồng trẻ:

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

(Truyện Kiều)

Nhưng có lẽ, chưa có nỗi sầu nào bi thương bằng nỗi sầu chia li của người chinh phụ được diễn tả trong Chinh phụ ngâm khúc. Chinh phụ ngâm khúc là một sáng tác văn chương xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cả khúc ngâm là nỗi sầu nhớ thương vời vợi của người vợ có chồng ra trận. Nỗi sầu ấy đậm đặc ngay từ sau phút chia li:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bên Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngất một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Người chồng chia tay vợ lên đường chinh chiến (một cuộc chinh chiến vô nghĩa đối với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn tủi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Chao ôi, có sự chia tay nào xót thương hơn thế, có sự ngăn cách nào khắc nghiệt hơn thế. Cả một nỗi sầu chia li nặng nề đă phủ lên khí trời, sắc núi:

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Sự đoái trông của người vợ trẻ thật tội nghiệp. Nàng muốn níu giữ lại mà hình bóng người chồng cứ xa dần, để rồi chỉ còn lại là không gian xa thẳm. Giữa khung cảnh tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh, người vợ càng trở nên lẻ loi, cô quạnh. Sự chia li từ chỗ mới chỉ là cách ngăn, chẳng mấy chốc đã tăng lên nhanh chóng cả về không gian và tâm trạng:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, thì sự ngăn cách đã lên đến mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ thương sầu muộn trong lòng người chinh phụ.

Đối với bất kì ai, khi người thân của mình phải đi vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), cũng đều có tâm trạng buồn đau thương nhớ.

Ở người chinh phụ, nỗi buồn đau sầu muộn ấy còn thêm bội phần bởi cái tình chồng vợ đương độ đằm thắm gắn bó thiết tha (còn ngoảnh lại - hãy trông sang). Gắn bó mà không được gắn bó, gắn bó mà phải chia li. Thực là oái oăm và nghịch chướng. Thực là thương tâm và đau xót bởi cái cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương.

Cái tên Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là được dùng theo bút pháp ước lệ của văn chương cổ điển) vẫn còn là những địa danh để người vợ có ý niệm về độ xa cách, nhưng đến bốn câu thơ tiếp theo thì cả ý niệm ấy cũng không còn, sự xa cách đã đến cực độ:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến khôn cùng, nỗi sầu chia li của người vợ đã trở thành khối sầu, núi sầu chất chồng, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mòn mỏi ngóng trông đến hóa đá của nàng.

Tình cảm vợ chồng và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó làm lay động tâm thức bao thế hệ bạn đọc. Chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách xúc động đến thế.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 4
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 4

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 6

Thơ ca là tiếng nói bên trong tâm hồn con người. Trước hiện thực đời sống tù túng, tăm tối, trước những số phận con người bi thảm khiến con người thấy khó chịu, ngột ngạt và đau xót, lúc ấy, thơ ca xuất hiện. Nó cất lên những nỗi đau của người nông dân bị áp bức, bất công, cho người cung nữ đơn độc, chờ đợi đến héo mòn, và cả cho những người phụ nữ có chồng ra chiến trận. “Chinh phụ ngâm” là tiếng nói như thế.

Đoạn trích “Sau phút chia li” là một trích đoạn tiêu biểu:“Chinh phụ ngâm” ra đời vào thế kỉ XVIII, khi xã hội Việt Nam giờ như một tổ ong với đầy rẫy những lỗ lớn nhỏ mà vua chúa như những con ong đang đấu đá, tranh giành để có thể trở làm chủ. Chúng mở ra các cuộc chiến tranh, chúng bắt những người nông dân để đi làm lính. Những người đàn ông phải rời xa tổ ấm để đi sống chết cho mạng sống của người khác, những người phụ nữ ở nhà trong nỗi nhớ thương vô hạn và lời cầu nguyện cho chồng có thể trở về. Những cảnh tượng ấy đã không còn xa lạ nhưng cũng chưa bao giờ là hết xót đau và căm phẫn. Chính trong hoàn cảnh ấy, Đặng Trần Côn đã viết lên khúc ngâm này.

“Chinh phụ ngâm” là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra chiến trận, trong nỗi cô đơn, nhớ thương, khổ đau và cả căm phẫn. So với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú và lục bát, thơ song thất lục bát có nhạc tính phong phú, phù hợp để diễn tả tâm trạng phức tạp của nhân vật. GS. Phan Ngọc từng nhận xét : "Cần phải có hình thức ấy, tình cảm mới có thể mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để toả ra trong câu bát dài nhất rồi lại vươn lên trong một khổ mới, cứ thế, đợt sóng tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức của ngôn ngữ". 408 câu thơ như 408 đợt sóng lòng trào lên không dứt trên trang giấy và trong cả lòng người. Bốn câu thơ đầu là cảm xúc chia li lúc ban đầu:

“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.”

Hai câu thơ đầu đã gợi ra thế đối lập của kẻ ở- người đi: “chàng thì đi… thiếp thì về…” Người chinh phu lên đường vào “cõi xa mưa gió” gian nan, vất vả, quyết định tới cả mạng sống chẳng phái vì công danh, lợi lộc, chức tước, chỉ vì một lí do không được do mình quyết định. Người chinh phụ ở lại, liệu có sung sướng hơn là bao khi phải đối diện với mưa sa nơi cõi lòng, khi hằng ngày chỉ có mình trong “buồng cũ chiếu ngăn”. Để rồi, tự bao giờ, nỗi buồn thương đã trải vào khắp không gian” “mây biếc, núi xanh”. Động từ “tuôn, trải” khiến không gian ngập tràn tâm tư của người chinh phụ. Nỗi sầu buồn, nhớ thương cứ giăng mắc ám ảnh con người. Để rồi, nỗi sầu nhớ ấy lại tăng lên, cao hơn theo thời gian:

“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.”

Sự xuất hiện của hai địa danh mang tính ước lệ càng nhấn mạnh sự xa cách vời vợi. Thủ pháp đối lập, tương ứng: “chốn Hàm Dương- bến Tiêu Tương”, “Khói Tiêu Tương- cây Hàm Dương”, “chàng ngoảnh lại- thiếp trông sang”, … ban đầu tưởng như đối nghịch. Nhưng dẫu cho khoảng cách địa lí có xa xôi đến mấy, Hàm Dương và Tiêu Tương vẫn đi cùng với nhau, nơi có chàng cũng sẽ có thiếp. “Mấy trùng” cách biệt mà lòng chàng, ý thiếp vẫn không xa rời nhau. Nhưng càng thương nhớ lại càng khổ đau nhiều, để rồi, nỗi buồn dâng lên đến cao trào:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

Lòng có hướng về nhau, có “cùng” nhưng khoảng cách nơi xa xôi vẫn “cùng chẳng thấy”, trước mắt chỉ là ngàn dâu với một màu xanh. Chữ “xanh” như bao phủ lấy những câu thơ, cả không gian bao phủ bởi chỉ một màu xanh. Xanh ấy ban đầu chỉ là “xanh xanh” rồi thành “xanh ngắt” cũng như nỗi sầu buồn của “thiếp” ngày càng dâng cao, đến mức cực điểm rồi. Các câu thơ cứ trùng trùng điệp điệp như những con sóng với phép điệp ngữ vòng như những đợt sóng lòng nơi người chinh phụ cứ miên man không dứt, cứ để nổi buồn tràn ra ngoại cảnh, trong ngàn dâu chẳng biết đâu là bến bờ. Câu thơ cuối cất lên đầy ám ảnh: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Khi con người không còn đủ tỉnh táo, họ chỉ có thể đặt ra những câu hỏi mình không trả lời, cũng chẳng để ai trả lời. Ai đâu có biết nỗi buồn của “thiếp” sâu đến nhường nào cũng như “thiếp” đâu có biết lòng chàng đến đâu, chàng sống chết ra sao rồi?

Chỉ 12 câu thơ mà cả biển trời nhung nhớ với những đợt sóng lòng trào lên không dứt, ngày một dữ dội hơn. Nỗi cô đơn và đợi chờ trong khắc khoải, vô vọng có gì giống chăng với người cung nữ cất tiếng ai oán cho cuộc đời mình khi dành cả thanh xuân tươi đẹp trong cung để chờ đợi và hi vọng vua sẽ tới. Vì sao họ lại khổ đau như thế? Câu thơ là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ chiến tranh phi nghĩa đã tước đi quyền được sống, được hạnh phúc của con người. Từ đó, có thể thấy từng giọt lệ của tác giả đang nhỏ trên trang viết, lòng cảm thương sâu sắc, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc sau mỗi con chữ. Đó mới chính là điều tạo nên giá trị và sức sống cho những câu thơ qua hàng thế kỉ.

Có những con người đã nằm xuống, những trang sử đã sang trang theo thời gian nhưng những dòng thơ, những con chữ thì còn mãi. “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm như thế.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 6
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 6

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 9

“Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là một tác phẩm văn vần vô cùng có ý nghĩa, phản ánh nỗi mất mát, đau khổ của người chinh phụ có chồng ra chiến trận trong bối cảnh rối ren của thời đại nói riêng và nỗi đau thương mất mát của con người thời chiến nói chung. Đoạn trích: “Sau phút chia li” trích trong khúc ngâm diễn tả nỗi nhớ da diết của người chinh phụ sau khi tiễn chồng ra lên đường ra “nơi binh đao loạn lạc”. Đọc đoạn trích, ta xót xa biết bao trước những ám ảnh cảm xúc mà con người phải gánh chịu bởi chiến tranh.Hai câu đầu đoạn trích như một lời kể của nhân vật về việc tiễn chồng ra chiến trận:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

“Chàng” và “thiếp” rõ ràng là đôi phu thê mặn nồng tình ái nhưng không thể như lẽ thường tình, được bên nhau vui vầy mà mỗi người một nơi. Người chinh phu thì cất bước ra đi đến nơi biên ải xa xôi, ở nơi đó không biết có bao “mưa gió mịt mùng” mà chẳng ai biết sẽ đợi chờ. Còn người chinh phụ thì về nơi xưa chốn cũ, căn buồng của đôi trẻ chờ ngày tái ngộ. Hai từ đối lập “đi”- “về” trong hai câu tạo nên sự ngăn cách, đôi người đôi ngả cho đôi lứa yêu nhau. Mới ở đó mà ta đã thấy thoáng vị chia phôi.Người chinh phụ giống như phần nào nhận ra sự cách trở giữa đôi bên khi mà:

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Sự ngăn trở giữa đôi phu thê đâu phải là một bức tường hay một thôn, một xóm mà xa tận chân trời, xa không đong đếm được, chỉ có thể ước lượng bằng sư hùng vĩ rộng lớn của thiên nhiên bao la. Khi trông theo hướng người chinh phu cất bước, người chinh phụ chỉ có thể thấy mây tuôn, thấy núi trải và hình ảnh mây, núi là sự liên tưởng cho cái xa nghìn trùng, một sự cách trở khó lòng đong đếm.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiều Dương thiếp hãy trông sang

Khói Tiên Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Ở những câu thơ tiếp, những địa danh cụ thể được gọi ra, Hàm Dương là nơi người chinh phu tới và bến Tiêu Dương là quê nhà có người chinh phụ đang mỏi mòn chờ ngóng. Phải chăng sự xa xôi giữa khói Hàm Dương và khói Tiêu Dương, giữa cây Hàm Dương và cây Tiêu Dương là biểu thị cho sự xa cách của chính con người? Họ xa cách là thế nhưng vẫn một lòng hướng về nhau nên “chàng còn ngoảnh lại”, “thiếp hãy trông sang”, họ luôn tìm kiếm cơ hội để tìm thấy hình bóng nhau trong không gian xa cách, dù biết trong vô vọng. Ở tận sâu thẳm đáy lòng của cả hai, ai cũng một niềm khát khao xum vầy để trọn vẹn trong tình yêu đôi lứa. Nhưng hiện thực thì lại nghiệt ngã khi mà cả hai:

Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Vì khoảng cách địa lí đã quá xa để họ có thể tìm thấy nhau, cho dù họ có cùng trông lại, cố tìm kiếm bóng dáng người thương thì cũng chỉ có thể thở dài trong tuyệt vọng bởi chẳng thể thấy nhau. Những gì họ có thể trông thấy trong tầm mắt đó là một màu xanh xanh giăng lấy tầm nhìn của ngàn dâu, một thứ màu xanh đồng sắc độ, vô vị nhưng bao trùm cả một không gian rộng lớn, hạn chế tầm nhìn và khóa kín hi vọng về khoảng cách.Và vì thế, một câu hỏi tu từ bật lên từ tận đáy lòng:

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Người chinh phụ này đang tỏ bày nỗi sầu của mình hay đang bày tỏ nỗi lo về tình cảm của người chinh phu? Cho dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi vẫn xoáy sâu vào lòng người đọc, toát lên nỗi sầu buồn, lo lắng của người chinh phụ. Đâu còn niềm hân hoan phơi phới mong ngày chồng mình có thể “áo gấm về làng” mà mới đó đã thấy một dạ xót xa.Có lẽ những điểm chung nhất của nỗi khổ con người mọi thời đại khi có cảnh đao binh đó là chia li. Sự chia li là nguồn cơn của bao nhiêu những nỗi bất hạnh của những kiếp người mà ở đây cụ thể là đối với tình yêu đôi lứa. Đặng Trần Côn đã tinh tế nhìn ra nỗi mất mát lớn lao này và cất lên tiếng nói cảm thông với số phận khổ đau trong cảnh chia li tan tác.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 9
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 9

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 1

"Sau phút chia ly" trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là khúc ngâm cứa sâu vào lòng người đọc nhiều nỗi niềm xót xa. Có người cho rằng đoạn trích này là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, nhưng có người lại nói của Phan Huy Ích. Tuy nhiên của nhà thơ nào thì nó vẫn là những áng thơ phản ánh chân thực, sâu sắc nhất tình cảnh lẻ loi, đơn độc của người phụ nữ khi có chồng ra trận. Đoạn trích này thực sự đã lột tả được tình cảnh thê lương của những cặp vợ chồng trẻ trong năm tháng chiến tranh ác liệt.

Thời kì phong kiến, có nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra đã lôi kéo rất nhiều người vào vòng xoáy này. Cuộc sống cơ cực, nỗi chia ly, tan tác cứ triền miên không có lối thoát. Khúc ngâm này chính là tiếng khóc ai oán của người chinh phụ khi có chồng ra trận mà không hẹn ngày về. Với những đặc trưng của thể ngâm cũng như của thơ Nôm, tác giả đã lột tả được diễn biến tâm lí một cách sâu sắc nhất.

Ngay từ những câu thơ đầu đã nói lên tình cảnh chia ly đầy đau đớn và xót xa của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả đã diễn tả một cách chân thực, sâu sắc tâm trạng u sầu này:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh

Chỉ với 4 câu thơ nhưng đã khắc họa rõ nét tâm trạng của người vợ trẻ sau khi tiễn chân chồng ra trận. Một tình cảnh đối lập, khắc nghiệt đến tái tê được gợi lên trong không gian dài và rộng, sâu và xa. Chàng và thiếp, mỗi người một ngả, mỗi người một nơi. Biện pháp tương phản được tác giả sử dụng một cách khéo léo. Là vợ chồng trẻ, gắn bó mặn nồng với nhau nhưng lại chia ly đau lòng nhưng chỉ biết câm nín.

Cụm từ "cõi xa mưa gió" giàu sức gợi tả, không chỉ là mưa gió của thiên nhiên khắc nghiệt mà có lẽ còn để diễn tả sự khốc liệt của chiến trang ngoài kia. Đối lập với "cõi xa mưa gió" là "buồng cũ chiếu chăn" người vợ trở về. Một bên khốc liệt, một bên cô đơn, lẻ bóng đến tái tê lòng. Tình cảnh đối lập, không gian đối lập đó cứa vào lòng người nỗi thương xót tộ cùng.

Người vợ trẻ còn "đoái trông theo" nhưng không gian mênh mông, chỉ thấy cách biệt, không thấy tương phùng. Chữ "đoái" như nặng nề và da diết khi phải chứng kiến cảnh biệt li như vậy.

Ở câu thơ cuối, tác giả dùng từ "tuôn" như tạo điểm nhấn cho đoạn trích. Nó vừa diễn tả chiều dài, vừa diễn tả chiều rộng. Màu xanh của đất trời bao phủ lấy không gian chia ly tan tác này. Màu xanh khiến cho lòng người thêm nặng nề và u sâu hơn. Nỗi nhớ thương đau đáu được diễn tả ở cấp bậc cao hơn ở những câu thơ tiếp theo:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Nghệ thuật đối lập tiếp tục được tác giả sử dụng triệt để: Chốn Hàm Dương>< Chốn Hàm Dương, Chàng còn ngoảnh lai>

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 1
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 1

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 5

Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.

Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao cảnh chia li bi thương sâu thiết:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiều Dương thiếp hãy trông sang

Khói Tiên Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

(Sau phút chia li - Trích Chinh phụ ngâm khúc)

Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Chàng thì đi - Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian: Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Ngàn núi xanh đã chia cách họ mà tâm lòng nhớ thương vẫn cứ đau đáu dõi về nhau:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Từ Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương đến khói Tiêu Tương- Cây Hàm Dương thì sự xa cách đã lên đến mấy trùng, cũng như nỗi sầu đã dâng lên trùng trùng lớp lớp trong lòng người chinh phụ:

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Càng dõi trông theo chồng, ước mong gặp mặt càng trở nên vô vọng. Còn đâu bóng dáng của người chồng thân yêu? Chỉ còn những ngàn dâu xanh xanh trải dài tít tắp đến tận chân trời như nỗi bi thương vô vọng không biết đến tận bao giờ:

Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Câu nghi vấn như một nốt nhấn làm hằn sâu nỗi sầu chất chứa trong lòng người chinh phụ một khối sầu càng lắc càng đầy. Cả một khối sầu nặng trĩu trong lòng người vợ trẻ tội nghiệp và đè nặng tâm can người đọc. Trong câu thơ dường như có cả tiếng nấc nghẹn ngào uất ức của người vợ. Vì đâu mà dẫn đến nỗi sầu nghịch chướng, oái oăm này? Vì đâu mà người chinh phụ phải đi vào cõi xa mưa gió, còn người chinh phụ trở về buồng cũ chiếu chăn vò võ một mình? Chiến tranh thật là tàn nhẫn.

Nhà thơ không chỉ nhận thấy, mà còn nghe thấy cả tiếng lòng sâu thẳm của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua những sáng tạo nghệ thuật tài hoa và điêu luyện. Chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li và tiếng lòng của người phụ nữ lại được thể hiện một cách sâu đậm đến thế.

Mười hai câu song thất lục bát trở thành tiếng nói chung cho cảnh biệt li của tất cả những cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn) và in dấu ấn trong tiềm thức của tất cả những ai yêu văn chương cổ điển Việt Nam.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 5
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 5

Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 2

Đoạn trích Sau phút chia li của Đặng Trần Côn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tuy ngắn ngủi nhưng cũng đủ để thể hiện tâm trạng, nỗi đau xót của người vợ sau phút chia li để chồng ra chiến trận. Qua đó tác phẩm còn thể hiện cái nhìn nhân văn, cảm thông sâu sắc của tác giả.

Khi đất nước xảy chiến tranh, người dân phải sống trong cảnh cơ cực, gia đình li tán. Khúc ngâm chính là nỗi lòng của người phụ nữa có chồng ra chiến trận. Bở Bởi vậy mà mỗi câu thơ đều như những lời thở than, ai oán và bất lực khi tiễn chồng ra đi. Ngay từ những câu thơ đầu tiên tác giả đã vẽ nên khung cảnh chia li đầy đau đớn của đôi vợ chồng trẻ:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh

Sử dụng nghệ thuật đối lập: chàng đi – thiếp về, hai con người chia li về hai ngả, câu thơ vang lên đầy đau đớn, chua xót. “Cõi xa mưa gió” phải chăng chính là hiện thực chiến tranh khốc liệt với biết bao hiểm nguy, không hẹn ngày về; “Buồng cũ chiếu chăn” lại gợi không gian cô đơn, lẻ bóng đến tận cùng. Tình cảnh đối lập như cứa, như xát vào lòng người chinh phụ. Chỉ một phút chia li mà ngoảnh lại tưởng chừng đã cách xa vạn dặm, cách nói “tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” cho thấy sự cách trở không chỉ còn hiện lên trong suy nghĩ, tâm tưởng mà là sự xa cách thực, khoảng cách về không gian, địa lý. Bốn câu thơ tiếp theo diễn tả nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Nghệ thuật đối lập, tương phản tiếp tục được tác giả sử dụng một cách tài tình: chàng ngảnh lại – thiếp trông sang, cùng với đó là cách điệp ngữ: Tiêu Tương, Hàm Dương được lặp đi lặp lại đã khắc sâu, tô đậm nỗi buồn, cô đơn đầy ám ảnh của người chinh phụ. Sử dụng hai địa danh mang tính ước lệ Hàm Dương và Tiêu Tương cách xa nhau vạn dặm còn khắc họa, tô đậm sự xa cách của đôi vợ chồng. Đến những câu thơ cuối cùng sự xa cách ấy dường như không còn có thể đong đếm bằng khoảng cách địa lý được nữa: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu” nỗi sầu chia li đã đẩy lên đến cực độ, gợi cảnh trời cao, đất rộng, thăm thẳm mênh mông không có giới hạn.

Giữa không gian rợn ngợp, bao la ấy dù chàng hay nàng ngoảnh lại cũng chẳng còn thấy nhau được nữa. Tình cảnh thật bi thương, ái ngại. Kết thúc bài thơ là câu hỏi đầy chua xót: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”. Hỏi đấy mà thực ra lại là tự vấn chính mình. Câu hỏi nêu ra không phải để so sánh chàng sầu hơn hay thiếp sầu hơn mà nó chỉ nhằm khắc họa thêm nỗi sầu, nỗi đau đớn khi phải chia lìa.

Ngôn từ điêu luyện, hàm súc, mang tính ước lệ, lời ít ý nhiều. Sử dụng linh hoạt nghệ thuật đối lập tương phản cho thấy tâm trạng đau đớn của người chinh phụ phải tiễn chồng ra trận. Nghệ thuật điệp từ: chẳng thấy, Tiêu Tương, Hàm Dương,.. nhấn mạnh vào nỗi sầu, cô đơn khắc khoải của người chinh phụ.

Đoạn trích Sau phút chia li đã cho thấy nỗi sầu chia li, nỗi đau đớn, xót xa lúc tiễn chồng ra trận. Qua những dòng tâm sự thấm đẫm nước mắt của người chinh phụ còn gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa đã khiến đôi lứa phải chia lìa, đồng thời thể hiện kín đáo khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Bài văn phân tích tác phẩm Sau phút chia li số 2
Bài văn phân tích tác phẩm "Sau phút chia li" số 2

Đăng ngày 10/07/2024, 68 lượt xem